Hướng dẫn cập nhật của AHA về hồi sinh tim phổi (CPR-CardioPulmonary Resuscitation) và cấp cứu tim mạch (ECC-Emergency Cardiovascular Care) năm 2015 tuy không là bản sửa đổi toàn diện nhưng có vài điểm rất khác biệt so với phiên bản 2010 trước đây.
Ấn bản này vừađược xuất bản trên tạp chí circulation số ra phụ bản vào10/2015dựa trên quy trình đánh giá chứng cứ quốc tế gồm 250 người đến từ 39 quốc gia. Những thay đổi chính đáng ghi nhận:
CHÚ TRỌNG VÀO NHẤN NGỰC
Nhân viên y tế thực hiện nhấn ngực và thông khí cho tất cả BN dù đó là nguyên nhân do tim hay không do tim. Ngoài ra nhân viên y tế cũng cần điều chỉnh trình tự của hành động cứu hộ cho phù hợp với nguyên nhân có khả năng gây ngưng tim cao nhất. Một người cứu hộ chưa qua đào tạo được khuyến cáo chỉ thực hiện CPR bằng cách nhấn ngực đơn thuần vì điều này sẽ tương đối dễ để người điều phối hướng dẫn qua điện thoại. Nhân viên y tế đã qua đào tạo về CPR có thể thực hiện đồng thời một số bước (kiểm tra hơi thở và mạch đồng thời) để nổ lực để giảm thời gian đến lần nhấn ngực đầu tiên. Người cứu hộ có thể thực hiện hiệu quả cả nhấn ngực và thông khí, tuy nhiên ưu tiên là kích hoạt hệ thống ứng cứu khẩn cấp và thực hiện nhấn ngực khi chỉ có một mình. Bắt đầu nhấn ngực trước khi hô hấp nhân tạo (trình tự C-A-B thay vì A-B-C), sau khi nhấn ngực 30 lần thì thổi ngạt 2 lần
SỐC TIM TRƯỚC HAY CPR TRƯỚC
Khi sẵn có AED, sử dụng máy khử rung càng sớm càng tốt. Nếu không có sẵn AED thì nên bắt đầu CPR trong khi tìm AED và sự khử rung được tiến hành ngay khi có chỉ định. Nhiều nghiên cứu xem xét vấn đề liệu nhấn ngực trong 1 thời gian cụ thể (1.5-3 phút) trước hay thực hiện sốc trước nhưng kết quả chưa thấy sự khác biệt. Nên thực hiện CPR trong khi sử dụng miếng dán AED và cho đến khi AED sẵn sàng phân tích nhịp.
TỐC ĐỘ NHẤN NGỰC 100-120 LẦN/PHÚT
Ở người lớn bị ngưng tim, sẽ hợp lý nếu người cứu hộ thực hiện nhấn ngực với tốc độ 100-120 lần/phút. Vì nhiều nghiên cứu cho rằng khi tốc độ nhấn tăng lên 120 lần/phút thì biên độ nhấn giảm xuống theo tỷ lệ tương ứng. Tỷ lệ nhấn ngực có biên độ không đủ khoảng 35% với tốc độ nhấn 100-119 l/p nhưng tỷ lệ biên độ không đủ tăng lên 50% tổng số lần nhấn ngực khi tốc độ nhấn 120-139 l/p và tỷ lệ biên độ không đủ tăng lên 70% số lần nhấn ngực khi tốc độ nhấn ngực > 140 l/p.
BIÊN ĐỘ NHẤN NGỰC
Trong khi CPR bằng tay, người cứu hộ cần thực hiện nhấn ngực với biên độ ít nhất 5cm cho người lớn trung bình và tránh biên độ quá lớn (> 6cm). Vì biên độ nhấn khoảng 5cm cho thấy tốt hơn nhấn ngực nông hơn và khả năng tổn thương ngực khi nhấn ngực quá mức > 6cm. Khó có thể xác định biên độ nhấn ngực nếu không sử dụng các thiết bị phản hồi, điều quan trọng là người cứu hộ cần chú ý thường là biên độ nhấn thường quá nông hơn là quá sâu.
NẢY NGỰC
Người cứu hộ tránh đè lên ngực giữa các lần nhấn để thành ngực có thể nảy lên hoàn toàn. Thành ngực nảy lên tạo một áp suất âm trong lồng ngực thúc đẩy máu hồi lưu tĩnh mạch và lưu lượng máu tim phổi. Đè lên thành ngực giữa các lần nhấn sẽ ngăn thành ngực nảy lên hoàn toàn, điều này làm tăng áp suất trong lồng ngực, giảm hồi lưu tĩnh mạch và lưu lượng mạch vành và có thể ảnh hưởng đến kết quả hồi sinh tim phổi.
GIẢM THIỂU GIÁN ĐOẠN KHI NHẤN NGỰC
Người cứu hộ cần nổ lực giảm thiểu tần suất và khoảng thời gian gián đoạn khi nhấn ngực để tối đa hóa số lần nhấn được thực hiện trong mỗi phút. Gián đoạn khi cấp cứu ngưng tim có thể do chủ ý (do phân tích nhịp tim hoặc thông khí) hoặc do vô tình (người cứu hộ bị phân tâm). Việc thêm tỷ lệ nhấn ngực với mục tiêu là hạn chế gián đoạn khi nhấn ngực và tối đa hóa tưới máu vành và lưu lượng máu trong CPR
EPINEPHRIN
Ở những người bị ngưng TH-HH có nhịp không sốc được nên dùng sớm epinephrin. Một nghiên cứu quan sát lớn về cấp cứu ngưng timvới nhịp không sốc được so sánh cách dùng epinephrine được cho từ 1 đến 3 phút với epinephrine được cho dùng ở 3 khoảng thời gian sau đó (4 đến 6, 7 đến 9 và hơn 9 phút). Nghiên cứu thấy rằng có mối liên hệ giữa việc dùng epinephrine sớm và tái lập tuần hoàn tự nhiên và khả năng sống sót tăng lên sau khi xuất viện và khả năng sống sót không biến di chứng thần kinh.
LIDOCAIN
Những nghiên cứu trước đây đã cho thấy có mối liên hệ giữa việc cho dùng lidocaine sau nhồi máu cơ tim và tỷ lệ tử vong tăng lên. Nghiên cứu gần đây về lidocaine ở những người sống sót sau khi ngưng tim cho thấy tỷ lệ rung thất/tim nhịp nhanh thất vô mạch tái phát giảm xuống nhưng không cho thấy có lợi ích hay tác hại lâu dài.Do vậy dùng lidocaine sau khi tái lập tuần hoàn tự nhiên vẫn còn tranh cãivà không khuyến cáo dùng 1 cách hệ thống. Cân nhắc bắt đầu hoặc tiếp tục sử dụng lidocaine ngay sau khi tái lập tuần hoàn tự nhiên trong ngưng TH-HHdo rung thất/tim nhịp nhanh thất vô mạch (pVT).
ỨC CHẾ b
Một nghiên cứu quan sát ghi nhận ức chế ß cho sau khi ngưng TH-HH có kết quả tốt hơn so với không dùng ức chế ß. Do đó có thể cân nhắc bắt đầu hoặc tiếp tục dùng ức chế ß uống hoặc TM sớm sau khi nhập viện vì cấp cứu ngưng TH-HHcó rung thất/tim nhịp nhanh thất vô mạch.
Bảng 1: Những việc nên làm và không nên làm trong hồi sinh tim phổi người lớn
Người cứu hộ nên |
Người cứu hộ không nên |
Nhấn ngực ở tốc độ 100-120 l/p |
Nhấn ngực ở tốc độ chậm hơn 100 l/p hoặc nhanh hơn 120 l/p |
Nhấn ngực với biên độ ít nhất là 5cm |
Nhấn ngục với biên độ chưa đến 5cm hoặc lớn hơn 6cm |
Để ngực nảy lên hoàn toàn sau mỗi lần nhấn ngực |
Tỳ lên ngực giữa các lần nhấn ngực |
Giảm thiểu khoảng dừng giữa các lần nhấn ngực |
Để gián đoạn > 10 giây |
Thông khí đầy đủ (2 lần thở sau 30 lần nhấn ngực, mỗi lần thở làm ngực phồng lên > 1 giây) |
Để thông khí quá nhiều (tức là quá nhiều lần thở hoặc thở quá mạnh) |
Bảng 2: Tóm tắt những thành phần của CPR
Hình 1: Lưu đồ xử trí ngưng TH-HH ở người lớn