Các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts thấy rằng điều trị suy tim định hướng theo dấu ấn sinh học, NT-proBNP có thể làm giảm đáng kể biến cố tim mạch trên bênh nhân suy tim tâm thu mạn tính. Hơn nữa, đã chứng minh được bệnh nhân ở nhánh điều trị định hướng theo
Dữ liệu mới chứng minh sử dụng NT-proBNP định hướng điều trị suy tim tốt hơn điều trị chuẩn
Biến cố tim mạch giảm hơn bốn mươi phần trăm ở nhánh theo dõi điều trị bằng NT-proBNP
Các nhà nghiên cứu tại Bệnh viện Đa khoa Massachusetts thấy rằng điều trị suy tim định hướng theo dấu ấn sinh học, NT-proBNP có thể làm giảm đáng kể biến cố tim mạch trên bênh nhân suy tim tâm thu mạn tính. Hơn nữa, đã chứng minh được bệnh nhân ở nhánh điều trị định hướng theo NT-proBNP có chất lượng sống tốt hơn, cũng như cải thiện đáng kể trong kết quả siêu âm tim so với nhánh điều trị chuẩn SOC (Standard of Care).
Những kết quả từ nghiên cứu sau đó được trình bày tại Hội nghị khoa học Hiệp hội tim Hoa Kỳ AHA (American Heart Association) ở Chicago Hoa Kỳ; cũng như tạị Hội thảo khoa học Tim mạch thường niên lần thứ V Roche Diagnostics Việt Nam (ngày 16 tháng 9 tại Tp. Hồ Chí Minh và ngày 18 tháng 9 tại Hà Nội) vừa qua.
Nhận xét về kết quả, nhà Nghiên cứu chính, BSJames Januzzi, Giáo sư Y khoa Đại học Y khoa Harvard và Giám đốc trung tâm Chăm sóc Tích cưc Tim mạch tại bệnh viện Đa khoa Massachusetts nói rằng: “Những dữ liệu này đang khuyến khích và chứng minh rằng sử dụng NT-proBNP để đính hướng điều trị suy tim không những giảm đáng kể tần suất tổng số biến cố tim mạch so với điều trị chuẩn, mà còn có ảnh hưởng rõ ràng đến chất lượng cuộc sống bệnh nhân, và cũng chứng minh ảnh hưởng rõ rệt trên hiệu năng của tim.”
“Những nghiên cứu trước đây điều tra về sử dụng NT-proBNP định hướng điều trị suy tim cho các kết quả không đồng nhất, do vậy kết quả từ nghiên cứu PROTECT, đã chứng minh rõ ràng sự ưu việt trong định hướng điều trị suy tim bằng NT-proBNP là bước tiến quan trọng,” BS Januzzi cho biết.
Nghiên cứu PROTECT (Pro-BNP Outpatient Tailored Congestive Heart Failure Therapy), một thử nghiệm tiền cứu ngẫu nhiên so sánh chiến lược định hướng điều trị suy tim bởi nồng độ của hormone tim—peptide lợi niệu Natri có nhóm đầu tận amino típ B (NT-proBNP)—so với điều trị suy tim chuẩn không có định hướng bởi NT-proBNP đã tuyển chọn bệnh nhân tham gia nghiên cứu tại Trung tâm Tim mạch Bệnh viện Đa khoa Massachusetts từ năm 2006. Nghiên cứu đã được ngưng sớm vào năm 2009 do kết quả tạm thời đã chứng minh sự khác biệt đáng kể giữa hai nhánh điều trị trong đó ưu thế rõ ràng trong nhánh NT-proBNP.
Xét nghiệm NT-proBNP, một hormone tim được phóng thích vào máu khi thành cơ tim bị căng ra, được phát triển và đưa vào thị trường bởi Roche. NT-proBNP được FDA Hoa Kỳ (the US Food and Drug Administration) chấp thuận như một dấu ấn sinh học khách quan để chẩn đoán và tiên lượng suy tim cũng như đánh giá nguy cơ trên bệnh nhân có Hội chứng mạch vành cấp.[i]
Nồng độ NT-proBNP dự báo nguy cơ tương lai trong suy tim mạn. Tuy nhiên, khi điều trị suy tim để cải thiện kết quả điều trị bệnh nhân được biết cần phải làm giảm nồng độ NT-proBNP, chiến lược điều trị suy tim “định hướng” tích cực bằng cách kết hợp điều trị thuốc theo đánh giá lâm sàng tiêu chuẩn với chiến lược mục tiêu làm giảm nồng độ NT-proBNP (với hy vọng làm giảm các biến cố hơn nữa so với điều trị suy tim chỉ theo đánh giá lâm sàng đơn thuần) vẫn còn chưa được chứng minh cho đến nay.
Trong nghiên cứu PROTECT, bệnh nhân suy tim do giảm chức năng tâm thất (phân suất tống máu thất trái <40%) được chia ngẫu nhiên thành một trong hai tiếp cận điều trị: nhánh điều trị chuẩn (standard-of-care), bệnh nhân được điều trị theo khuyến cáo (guideline), và nhánh NT-proBNP, bệnh nhân được điều trị tương tự về lâm sàng, nhưng được điều chỉnh điều trị nhằm làm giảm nồng độ NT-proBNP đến mức dưới 1,000 pg/mL, là giá trị mà các nghiên cứu trước đây đã chứng minh làm giảm đáng kể các nguy cơ biến cố tim mạch trong suy tim.[ii]
Đối với tiêu chí chính, giảm 40% tổng số biến cố tim mạch ở nhánh NT-proBNP so với nhánh SOC (58 so với 100 biến cố; P =.009). Điều này được chứng minh bởi sự cải thiện tỉ lệ suy tim nặng thêm và giảm tỉ lệ nhập viện do suy tim. Hơn nữa, nhánh NT-proBNP có bệnh nhân bị một biến cố tim mạch ít hơn (29.3% so với 48.6%)
Đối với tiêu chí phụ, nói chung có xu hướng cải thiện chất lượng sống (QoL) ở những người tham gia nghiên cứu này. Những bệnh nhân ở nhánh NT-proBNP có cải thiện QoL nhiều hơn so đáng kể với nhánh SOC (-10.0 so với -5.0; P =.05); nhánh NT-proBNP cũng chứng minh có khả năng cải thiện điểm số QoL nhiều hơn hẳn (≥10 điểm) (61.2% so với 38.8%; P =.03).
Ngoài ra còn tiêu chí phụ bao gồm đánh giá thay đổi các thông số siêu âm tim. Tổng số 116 người tham gia nghiên cứu (NT-proBNP = 60; SOC = 56) có thực hiện siêu âm tim lúc ban đầu và trong thời gian theo dõi. Trong thời gian nghiên cứu, phân suất tống máu thất trái (đo hiệu năng tim) cải thiện trung bình 6.0%. So với nhánh SOC, những bệnh nhân nhánh NT-proBNP đã chứng minh cải thiện phân suất tống máu thất trái tuyệt đối lớn hơn (8.3% so với 4.0%; P =.10) và tương đối lớn hơn (18.0% so với 8.0%; P =.01).
Bệnh tim mạch, bao gồm suy tim, vẫn là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên toàn cầu.[iii] Không như các bệnh lý khác, suy tim dự báo tiếp tục gia tăng, do dân số lớn tuổi và cách sống ít vận động ngày càng tăng.
Nguy cơ suy tim trong đời đối với một người 55 tuổi khoảng ba mươi phần trăm[iv]. Chẩn đoán và tiên lượng sẽ trầm trọng hơn hầu hết các bệnh ung thư[v]. Suy tim được xếp loại là một trong số các bệnh mạn tính gây tốn kém nhất tại các nước phát triển, là gánh nặng lớn nhất cho người lớn tuổi. Nhập viện do suy tim đang là gánh nặng cho ngành y tế.
“Mặc dù có nhiều biện pháp điều trị hiệu quả suy tim mạn tính trong thời gian qua, nhưng tiên lượng vẫn kém và người bệnh suy tim vẫn còn có tỷ lệ tử vong và biến chứng cao. Thật thú vị khi có thêm một tiếp cận mới có thể ứng dụng rộng rãi và dễ dàng để có được kết quả điều trị đáng kể cho bệnh nhân và giảm bớt nhiều gánh nặng chi phí cho ngành y tế,” BS. Januzzi phát biểu.
Cũng hướng nghiên cứu tương tự PROTECT, ông đang thực hiện nghiên cứu GUIDE-IT tiền cứu ngẫu nhiên đa trung tâm, gồm 1100 bệnh nhân tại 200 bệnh viện trên toàn nước Hoa Kỳ để có thêm nhiều bằng chứng về lợi ích của định hướng điều trị suy tim theo NT-proBNP.
Về nghiên cứu PROTECT
Pro-BNP Outpatient Tailored Congestive Heart Failure Therapy (PROTECT) là thử nghiệm tiền cứu đơn trung tâm, tại đây 151 bệnh nhân có suy tim do rối loạn chức năng tâm thu thất trái được chia ngẫu nhiên thành 2 nhánh, nhánh điều trị chuẩn kết hợp với mục tiêu làm giảm nồng độ NT-proBNP ≤1000 pg/mL và nhánh điều trị chuẩn (SOC). Tiêu chí chính là tổng số biến cố tim mạch giữa hai nhóm. Tiêu chí phụ bao gồm ảnh hưởng của định hướng điều trị theo NT-proBNP đến chất lượng sống (QOL; đánh giá chất lượng sống bằng bộ câu hỏi Minnesota Living with HF) cũng như cấu trúc và chức năng tim được đánh giá bằng siêu âm tim.
*Tất cả các thương hiệu được sử dụng hay đề cập trong thông cáo này đã được đăng ký bản quyền.
Roche, có trụ sở chính tại Basel (Thụy Sĩ), là Tập đoàn dẫn đầu trong lĩnh vực chăm sóc sức khỏe với thế mạnh kết hợp cả hai ngành dược phẩm và chẩn đoán. Roche là công ty về công nghệ sinh học lớn nhất thế giới với những dược phẩm khác biệt cho các ngành ung thư, vi-rút, viêm nhiễm, chuyển hóa và thần kinh. Roche cũng dẫn đầu thế giới về lĩnh vực xét nghiệm chẩn đoán, giải phẫu bệnh và là nhà tiên phong trong kiểm soát bệnh đái tháo đường. Chiến lược cá nhân hóa chăm sóc sức khỏe được đặt ra như mục tiêu nhằm cung cấp các dược phẩm và công cụ chẩn đoán mang đến các cải thiện xác thực cho sức khỏe, chất lượng cuộc sống cũng như sự sống còn của bệnh nhân. Năm 2011, Roche đã có hơn 80.000 nhân viên làm việc trên toàn cầu và đã đầu tư khoảng 8 tỷ franc Thụy Sĩ cho việc nghiên cứu và phát triển sản phẩm. Doanh số niêm yết của Tập đoàn là 42,5 tỷ franc Thụy Sĩ. Công ty Genentech (Mỹ) cũng là một thành viên của Tập đoàn Roche. Đồng thời, Roche cũng nắm giữ đa số cổ phần tại Công ty dược Chugai, Nhật Bản. Thông tin thêm có tại website: www.roche.com. |
——————————————————————————————
[1]Roche Diagnostics. NT-pro BNP , US Package Insert. 2008
[2]Troughton RW, Richards AM. Outpatient Monitoring and Treatment of Chronic Heart Failure Guided by Amino-Terminal Pro–B-Type Natriuretic Peptide Measurement. Am J Cardiol 2008; 101 [suppl]: 72A-75A
[3]World Health Organisation. The Atlas of Heart Disease and Stroke. 2004.
[4]Bleumink GS, Knetsch AM, Sturkenboom MCJM, Straus SMJM, Hofman A, Deckers JW, Witteman JCM, Stricker BHC. Quantifying the heart failure epidemic: prevalence, incidence rate, lifetime risk and prognosis of heart failure. The Rotterdam Study. Eur Heart J 2004;25:1614–1619.
[5]Stewart S, MacIntyre K, Hole DJ, Capewell S, McMurray JJV. Eur J Heart Fail 2001; 3: 315–22