Bài Xa lộ Thông Tin lần này xin hân hạnh tiếp tục gửi đến quý độc giả 2 thông tin mới.Đầu tiên, chúng ta sẽ cùng theo dõi liệu việc dùng đồng thời DOACs và Amiodarone (một chất ức chế quá trình chuyển hóa của DOACs) trên bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim có ảnh hưởng gì đến kết cục lâm sàng?
Tiếp theo, chúng ta sẽ cùng Garcia và cộng sự đánh giá tính an toàn và hiệu quả của NOACs so với warfarin trên nhóm bệnh nhânđược triệt đốt rung nhĩ qua catheter.
An toàn và hiệu quả khi dùng đồng thời Amiodarone và NOACs cho bệnh nhân rung nhĩ không do van tim: phân tích gộp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
Đặt vấn đề
Các thuốc NOACs được chuyển hóa bởi P-glycoprotein (P-gp) và cytochrome p-450 (CYP3A4). Amiodarone là một thuốc ức chế đồng thời cả P-glycoprotein và CYP3A4. Do đó nồng độ NOACs trong máu có thể gia tăng khi dùng đồng thời với amiodarone. Để kiểm chứng liệu tương tác thuốc giữa amiodarone và NOACs có liên quan đến các kết cục trên lâm sàng, Peltzer và cộng sự tiến hành phân tích gộp dựa trên các thử nghiệm lâm sàng tiến cứu, phân nhóm ngẫu nhiên của NOACs.
Phương pháp nghiên cứu
Tổng quan hệ thống cơ sở dữ liệu MEDLINE, Cochrane và EMBASE, và chỉ giới hạn những nghiên cứu phân nhóm ngẫu nhiên có đối chứng giữa NOACs và warfarin trong dự phòng đột quỵ ở bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim.
Phân tích ảnh hưởng của việc dùng kèm amiodarone lên nguy cơ đột quỵ hoặc thuyên tắc mạch hệ thống, xuất huyết nặng và xuất huyết nội sọ.
Kết quả nghiên cứu
4 thử nghiệm lâm sàng với tất cả 29.361 bệnh nhân được đưa vào phân tích. Trong đó có 3.212 bệnh nhân (5%) có dùng đồng thời cả NOACs và amiodarone.
Giữa nhóm bệnh nhân dùng đồng thời NOACs và Amiodarone và nhóm chỉ dùng NOACs đơn thuần, không có khác biệt có ý nghĩa thống kê về bất kì biến cố nào được nghiên cứu như: đột quỵ hoặc tắc mạch hệ thống (HR=0,85; 95% CI: 0,67-1,06); xuất huyết nặng (HR=0,91; 95%CI: 0,77-1,07); xuất huyết nội sọ (HR=1,10; 95% CI 0,68-1,76).
Hạn chế
(1) Dân số không đồng nhất (2) Một phần dữ liệu được thu thập từ phân tích dưới nhóm (post-hoc analysis) (3) Không được phân nhóm ngẫu nhiên với amiodarone.
Kết luận
Kết quả của phân tích gộp này cho thấy việc dùng đồng thời amiodarone và NOACs có vẻ như không ảnh hưởng đến các biến cố về an toàn cũng như hiệu quả dự phòng đột quỵ cho bệnh nhân rung nhĩ không do bệnh van tim.
Nguồn dịch: B.Peltzer el al JACC March 20, 2018 Volume 71, Issue 11
NOACs so với warfarin ở bệnh nhân tiến hành triệt phá rung nhĩ: phân tích gộp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên
Đặt vấn đề
NOACs ngày càng được sử dụng nhiều hơn trên lâm sàng cho bệnh nhân rung nhĩ có tiến hành thủ thuật triệt phá rung nhĩ. Tuy nhiên thủ thuật này thường đi kèm với các biến chứng như đột quị thiếu máu và chảy máu trên lâm sàng. Dựa vào phân tích gộp các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên có đối chứng, Garcia và cộng sự đánh giá tính an toàn và hiệu quả của NOACs so với warfarin trên phân nhóm bệnh nhân này.
Phương pháp
Tổng quan hệ thống từ cơ sở dữ liệu trên PUBMED, EMBASE, CENTRAL và Scopus, tác giả đưa vào phân tích những thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên, so sánh việc không ngắt quãng dùng thuốc kháng đông trong 2 nhóm NOACs và warfarin ở bệnh nhân rung nhĩ trải qua thủ thuật triệt phá rung nhĩ.
Các biến cố được theo dõi gồm có: đột quỵ nhồi máu, đột quỵ xuất huyết, xuất huyết nặng, xuất huyết nhẹ, biến chứng liên quan do chọc dụng cụ và chèn ép tim.
Kết quả
4 thử nghiệm với 1173 bệnh nhân được đưa vào phân tích gộp. NOACs và warfarin tương đương về biến cố đột quỵ, [Odds ratio (OR)=0,50 95 %CI 0,12-2,08; p=0,34], xuất huyết nặng [OR=0,33 (0,09-1,13) p=0,08] gồm cả chèn ép tim [OR=0,54 (0,03-9,05); p=0,67] và xuất huyết nhẹ [ OR=1,13 (0,80-1,59); p=0,48]. Nhóm bệnh nhân dùng NOACs có tỉ lệ thấp hơn có ý nghĩa thống kê các biến cố liên quan đến chọc catheter [OR=0,56 (0,31-1,00) p=0,05].
Kết luận
So với warfarin, sử dụng NOACs quanh thời điểm thủ thuật triệt phá rung nhĩ giúp giảm biến cố liên quan do chọc catheter, và tương đương với warfarin về tỉ lệ các biến cố đột quỵ nhồi máu và xuất huyết.
Nguồn dịch: N.T. Garcia et al JACC March 20, 2018 Volume 71, Issue 11