Google search engine
Google search engine

Mối liên quan giữa biến dạng tổng dọc thất trái với HBA1C và Albumin niệu ở bệnh nhân đái tháo đường Típ 2

BS. NGUYỄN QUỐC VIỆT

PGS.TS.BS NGUYỄN TUẤN VŨ *

* Bộ môn Nội, Đại học Y khoa Phạm Ngọc Thạch

 

TÓM TẮT

Mở đầu: Ở người bệnh đái tháo đường típ 2 (ĐTĐ típ 2), rối loạn cơ học cơ tim có thể âm thầm xuất hiện từ rất sớm dù phân suất tống máu (EF) còn bảo tồn1. Biến dạng tổng dọc thất trái (GLS) trên siêu âm đánh dấu mô 2D là chỉ số nhạy phát hiện suy giảm chức năng tâm thu thất trái dưới lâm sàng, giúp can thiệp kịp thời trước khi tiến triển suy tim có triệu trứng2. Tuy nhiên, bằng chứng trong thực hành Việt Nam về tỷ lệ bất thường GLS và các yếu tố liên quan đặc biệt vai trò của HbA1c trong kiểm soát đường huyết dài hạn và biến chứng thận vẫn còn hạn chế.

Mục tiêu: Xác định tỷ lệ suy giảm chức năng tâm thu thất trái dưới lâm sàng với GLS <18%. Khảo sát mối liên quan giữa GLS với HbA1c. Xác định yếu tố nguy cơ độc lập dự báo rối loạn chức năng thất trái dưới lâm sàng.

Đối tượng – Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang tại Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh (10/2024–08/2025) trên 109 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 phù hợp với tiêu chuẩn chọn mẫu. GLS được đo bằng ĐTĐ típ 2 đủ tiêu chuẩn chọn vào, siêu âm đánh dấu mô 2D; phân tích tương quan, ROC và hồi quy logistic (đơn biến, đa biến).

Kết quả: Nghiên cứu của chúng tôi trên 109 bệnh nhân (bao gồm 46 nam và 63 nữ), tỉ lệ suy giảm chức năng thất trái dưới lâm sàng 37,6% (41/109 bệnh nhân). GLS tương quan nghịch và khá yếu với HbA1c (r = −0,289; p = 0,002). Đường cong ROC của HbA1c dự đoán GLS bất thường cho AUC = 0,711 (Khoảng tin cậy 95% 0,610–0,811; p < 0,001), ngưỡng tối ưu 7,15% (Độ nhạy 82,9%; Độ đặc hiệu 57,4%); có thể cân nhắc ngưỡng 7,95% khi ưu tiên đặc hiệu. Hồi quy đa biến cho thấy hai yếu tố dự báo độc lập của GLS bất thường là HbA1c (OR 1,752; KTC 95% 1,155–2,658; p = 0,008) và tỉ số albumin/creatinine nước tiểu (OR 1,848; KTC 95% 1,022–3,343; p = 0,042).

Kết luận: Ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 với EF>50%, rối loạn chức năng cơ tim thất trái dưới lâm sàng khá thường gặp. HbA1c và UACR là những yếu tố dự báo độc lập, gợi ý vai trò của kiểm soát đường huyết dài hạn và sàng lọc biến chứng thận (albumin niệu) trong chiến lược phát hiện sớm tổn thương cơ tim. Việc ứng dụng GLS giúp nhận diện sớm rối loạn cơ học cơ tim khi EF còn bình thường, hỗ trợ tối ưu hóa quản lý tim mạch đái tháo đường cho người bệnh.

Từ khóa: Siêu âm tim đánh dấu mô, đái tháo đường típ 2, rối loạn chức năng tâm thu thất trái dưới lâm sàng, biến dạng tổng dọc thất trái.

ĐẶT VẤN ĐỀ

Đái tháo đường típ 2 (ĐTĐ típ 2) là một bệnh mạn tính gánh nặng toàn cầu. Bệnh cơ tim đái tháo đường hay suy tim do bệnh thái tháo đường đang là một vấn đề được quan tâm và nghiên cứu nhiều trong vài thập kỷ gần dây. Suy giảm chức năng cơ tim thất trái dưới lâm sàng thường xuất hiện sớm, không triệu chứng nhưng có thể dẫn đến suy tim nếu không được phát hiện và can thiệp kịp thời1.

Phân suất tống máu thất trái (EF) là chỉ số truyền thống dùng để đánh giá chức năng tim, nhưng ở giai đoạn sớm, EF có thể vẫn còn bảo tồn khi cơ tim đã bắt đầu bị tổn thương. Do vậy, chỉ số biến dạng dọc toàn bộ thất trái hay biến dạng tổng dọc thất trái (Global Longitudinal Strain – GLS) được xem là chỉ dấu nhạy và sớm cho rối loạn chức năng tâm thu thất trái dưới lâm sàng2,3.

Tại Việt Nam, đã có nhiều nghiên cứu khảo sát và ứng dụng GLS trong nhiều bệnh lý nhưng các nghiên cứu về GLS ở bệnh nhân ĐTĐ típ 2 còn hạn chế, đặc biệt là mối liên quan giữa GLS với đường huyết và biến chứng vi mạch giúp phát hiện sớm tổn thương tim định hướng điều trị sớm. Vì vậy, nghiên cứu này

được thực hiện để xác định tỷ lệ rối loạn chức năng thất trái dưới lâm sàng và khảo sát mối liên quan của GLS với HbA1c và biến chứng thận.

MỤC TIÊU NGHIÊN CỨU

Khảo sát chức năng thất trái trên siêu âm tim đánh dấu mô cơ tim ở bệnh nhân đái tháo đường típ 2. Mục tiêu cụ thể bao gồm:

  • Xác định tỷ lệ suy giảm chức năng tâm thu thất trái dưới lâm sàng với ngưỡng GLS <18%.
  • Khảo sát mối liên quan giữa GLS với HbA1c.
  • Xác định yếu tố nguy cơ độc lập dự báo rối loạn chức năng thất trái dưới lâm sàng.

ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Thiết kế nghiên cứu: Nghiên cứu cắt ngang.

Dân số nghiên cứu: Những bệnh nhân mắc bệnh Đái tháo đường típ 2 khám và theo dõi tại tại Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh trong thời gian nghiên cứu từ tháng 10/2024 đến tháng 08/2025

Tiêu chuẩn chọn vào: Bệnh nhân ≥ 18 tuổi, được chẩn đoán ĐTĐ típ 2 theo tiêu chuẩn Bộ Y tế. EF ≥ 50%. Không có bệnh lý tim mạch thực tổn (bệnh mạch vành, bệnh van tim, suy tim đã biểu hiện…) hoặc các bệnh nội khoa ảnh hưởng chức năng tim

Tiêu chuẩn loại ra: EF < 50%, Huyết áp tâm thu > 160 mmHg hoặc huyết áp tâm trương > 100 mmHg, Bệnh van tim, bệnh mạch vành, bệnh phổi mạn, bệnh gan, rối loạn nhịp tim không xoang, chất lượng siêu âm không đạt chuẩn để đánh giá GLS.

Cỡ mẫu

Trong đó: Z : là giá trị phân phối chuẩn: Z = 1,96 ; d : là sai số ước lượng, chọn d = 0,1; chọn p = 0,46 theo nghiên cứu của tác giả YanYan Chen4 thực hiện năm 2021 tại Trung Quốc. Theo công thức này, chúng tôi tính ít nhất có 96 bệnh nhân.

Phương pháp thu thập dữ liệu:

Siêu âm tim hai chiều dùng máy Vivid T95 (GE Healthcare) và phần mềm AFI để đo GLS qua kỹ thuật đánh dấu mô cơ tim (Speckle tracking echocardiogaphy). Thu thập dữ liệu lâm sàng, HbA1c, UACR và các xét nghiệm sinh hóa từ hồ sơ bệnh án.

Xử lý số liệu:

Sử dụng phần mềm SPSS 26.0. Phân tích bao gồm: Thống kê mô tả, Tương quan giữa GLS và HbA1c, Phân tích ROC xác định ngưỡng HbA1c dự đoán GLS bất thường, Hồi quy logistic đa biến để xác định các yếu tố dự báo độc lập.

KẾT QUẢ

Qua nghiên cứu tiến hành trên 109 bệnh nhân mắc bệnh mạch vành từ tháng 10/2024 đến tháng 08/2025 tại Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh chúng tôi ghi nhận có 41/109 bệnh nhân có rối loạn bệnh nhân ĐTĐ típ 2 trong có rối loạn chức năng thất trái với tỉ lệ 37,6%.

Đặc điểm dân số nghiên cứu:

Hình 1 Tỷ lệ suy giảm chức năng tâm thu thất trái GLS<18%

Chúng tôi chia chia nhóm: chức năng tâm thu thất trái bình thường (GLS ≥18%) và giảm chức năng tâm thu thất trái (GLS<18%). Trong mẫu nghiên cứu, nữ giới chiếm 57,8% (nam 42,2%); phân bố giới giữa nhóm GLS bình thường và GLS giảm không khác biệt có ý nghĩa (p = 0,164). Không ghi nhận khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm GLS < 18% và GLS ≥ 18% về tuổi (62,2 ± 9,2; p = 0,298), BMI (trung vị trong ngưỡng thừa cân; p = 0,229), thời gian mắc ĐTĐ típ 2 (xu hướng dài hơn ở GLS < 18% nhưng không ý nghĩa; p = 0,388), tiền sử tăng huyết áp (>80% ở cả hai nhóm; p = 0,781), cũng như huyết áp tâm thu, tâm trương và nhịp tim. Tóm lại, trong nghiên cứu này, các yếu tố nhân trắc học và lâm sàng cơ bản không liên quan đáng kể đến suy giảm chức năng thất trái đánh giá bằng GLS.

Thuốc hạ đường huyết, tim mạch và statin:

Metformin là thuốc hạ đường huyết được sử dụng phổ biến nhất (100/109 bệnh nhân, >90%), không có sự khác biệt giữa hai nhóm GLS (<18% và ≥18%, p = 0,762). Tỷ lệ sử dụng các thuốc khác cũng không khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm: Sulfonylurea (48%, p = 0,693), DPP-4i (76%, p = 0,105), SGLT-2i (69%, p = 1,000), Insulin (12%, p = 0,150). Không có bệnh nhân nào sử dụng α-GI hoặc GLP-1RA. Phần lớn bệnh nhân dùng Statin (98%, p = 1,000) và ACEI/ARB/ARNI (85%, p = 1,000). Việc sử dụng thuốc ức chế beta (59%, p = 0,841) và ức chế kênh canxi (50%, p = 0,845) cũng không khác biệt giữa hai nhóm GLS.

Các thông số sinh hóa:

So sánh giữa hai nhóm bệnh nhân theo mức độ GLS (<18% và ≥18%) cho thấy HbA1c và triglyceride là hai chỉ số duy nhất có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. HbA1c trung bình ở nhóm GLS <18% cao hơn đáng kể so với nhóm GLS ≥18% (8,2% vs 7,0%; p < 0,001), phản ánh kiểm soát đường huyết kém liên quan đến suy giảm chức năng cơ tim. Triglyceride cũng cao hơn ở nhóm GLS <18% (2,2 mmol/L vs 1,5 mmol/L; p = 0,005), gợi ý mối liên hệ giữa rối loạn lipid máu và tổn thương cơ tim dưới lâm sàng.

Các chỉ số khác như glucose huyết đói (FBG), cholesterol toàn phần, LDL-C, HDL-C, creatinine, eGFR và tỷ lệ biến chứng thận không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa hai nhóm (p > 0,05).

Các thống số siêu âm tim:

Các thông số kích thước và thể tích thất trái (IVDd, LVEDd, EDV, ESV) không có sự khác biệt đáng kể giữa hai nhóm GLS (p > 0,1). Duy nhất bề dày thành sau thất trái (PWTd) cao hơn ở nhóm GLS <18% (10,0 ± 1,6 mm so với 9,5 ± 1,3 mm; p = 0,049). Chỉ số khối lượng cơ tim (LVMi) có xu hướng cao hơn ở nhóm GLS thấp nhưng không có ý nghĩa thống kê (p = 0,234).

Phân suất tống máu (LVEF) trung bình toàn nhóm là 59,6 ± 3,4%, không khác biệt giữa hai nhóm (p = 0,11), trong khi chỉ số GLS cho thấy sự khác biệt rõ rệt: nhóm GLS <18% có giá trị trung bình 16,7 ± 0,98%, thấp hơn đáng kể so với nhóm GLS ≥18% (19,6 ± 1,3%; p < 0,001).

Về siêu âm Doppler, vận tốc sóng E thấp hơn đáng kể ở nhóm GLS <18% (57 cm/s vs 74 cm/s; p = 0,001), trong khi sóng A cao hơn nhưng không có ý nghĩa (p = 0,062). Tỷ số E/A và thời gian giảm tốc (DT) không khác biệt (p > 0,2).

Ở chỉ số Doppler mô, vận tốc e’ bên (e’lat) và e’ trung bình (e’avg) giảm rõ ở nhóm GLS <18% (p = 0,011 và p = 0,027), còn e’ vách (e’sep) không có sự khác biệt. Các chỉ số E/e’ và LAVi không khác biệt có ý nghĩa thống kê (p > 0,3).

Cuối cùng, tốc độ dòng hở van ba lá tối đa (TR-Vmax) thấp hơn ở nhóm GLS <18% (2,2 m/s vs 2,5 m/s; p = 0,014), gợi ý rằng bệnh nhân có rối loạn chức năng cơ tim dưới lâm sàng chưa biểu hiện tăng áp lực động mạch phổi.

Mối liên quan giữa GLS và HbA1C, đường cong ROC dự báo suy giảm chức năng tâm thu thất trái:

Hình 2 Mối tương quan GLS<18% và HbA1C

cGLS<18% và HbA1C có mối tương quan nghịch có ý nghĩa thống kê, với r = -0.289, và giá trị p = 0,002. Điều này cho thấy khi giá trị HbA1C tăng thì giá trị GLS có xu hướng giảm. Mối tương quan này có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa (p < 0,01), tuy nhiên mức độ tương quan là yếu (Hình 1).

Hình 3 Biểu đồ đường cong ROC

Phân tích ROC với HbA1C cho thấy diện tích dưới đường cong (AUC) đạt 0,711 (SE = 0,051; 95% CI: 0,610–0,811; p < 0,001), phản ánh khả năng phân biệt khá tốt giữa nhóm có bệnh và không có bệnh. Ngưỡng HbA1C tối ưu được xác định là 7,15, với độ nhạy 82,9% và độ đặc hiệu 57,4%. Nếu ưu tiên độ đặc hiệu cao để giảm dương tính giả, có thể chọn ngưỡng 7.95 (độ đặc hiệu 79,4%, độ nhạy 58,5%).

Hồi quy đơn biến và đa biến các yếu tố nguy cơ:

Bảng 1. Hồi quy đơn biến và đa biến các yếu tố nguy cơ

Tên biến Hồi quy đơn biến Hồi quy đa biến
OR CI 95% P OR CI 95% P
Giới 1.81 0.82-3.964 0.141
Tuổi 0.98 0.94-1.02 0.224
BMI 1.06 0.95-1.18 0.258
Thời gian mắc ĐTĐ 1.01 0.94-1.09 0.750
HbA1C 1.54 1.17-2.04 0.002 1.752 1.155-2.658 0.008
FPG 1,12 0.97-1.27 0.126 .844 .685-1.041 0.113
SBP 1.02 0.99-1.04 0.262
HR 1.01 0.96-1.06 0.683
TG 1.45 1.05-2.00 0.026 1.350 .926-1.967 0.118
UACR 1.94 1.1-3.4 0.021 1.848 1.022-3.343 0.042
Insulin 3 0.68-13.3 0.147
SGLT2 0.96 0.42-2.22 0.928
Metformin 0.73 0.19-2.91 0.660
Có biến chứng thận 0.99 0.46-2.15 0.980

Phân tích hồi quy logistic đơn biến cho thấy ba yếu tố liên quan có ý nghĩa thống kê với rối loạn chức năng cơ tim (GLS giảm): HbA1c: OR = 1,544 (95% CI: 1,17–2,04, p = 0,002), Triglyceride (TG): OR = 1,45 (95% CI: 1,05–2,00, p = 0,026), UACR: OR = 1,94 (95% CI: 1,1–3,4, p = 0,021)

Các yếu tố còn lại như tuổi, giới, BMI, thời gian mắc bệnh, FPG, huyết áp, thuốc điều trị,… không có mối liên quan thống kê rõ ràng (p > 0.05).

Phân tích hồi quy đa biến (hiệu chỉnh đồng thời các biến) xác định: HbA1c vẫn là yếu tố dự báo độc lập mạnh (OR = 1,752, 95% CI: 1,155–2,658, p = 0.008), UACR vẫn có ý nghĩa thống kê (OR = 1,848, 95% CI: 1,022–3,343, p = 0.042), TG và FPG không còn ý nghĩa sau khi hiệu chỉnh (p > 0,05)

BÀN LUẬN:

Đặc điểm mẫu nghiên cứu:

Nghiên cứu với cỡ mẫu khiêm tốn (109 bệnh nhân) nhưng có đặc điểm nhân chủng học tương đồng với các nghiên cứu trong và ngoài nước. Tuổi trung bình 62,2 ± 9,2 và tỷ lệ nữ 57,8% gần giống với nghiên cứu của Nguyễn Thị Khuê5 (62,7 ± 10,4 tuổi; nữ 58,9%). BMI trung bình 24,4, thời gian mắc ĐTĐ trung vị 8 năm cũng tương đồng với dữ liệu từ DiabCare5 và nghiên cứu tại Nhật Bản của Mochizuki6 (BMI 24,7; thời gian bệnh 11,8 năm). Tăng huyết áp là bệnh lý đồng mắc phổ biến (85,3%).

Tỷ lệ bệnh nhân có rối loạn chức năng thất trái dưới lâm sàng (GLS <18%) là 37,8%, phù hợp với các nghiên cứu trong khu vực như Yanyan Chen4 (46%) và thấp hơn so với các nghiên cứu tại Việt Nam (Nguyễn Thị Thanh Trúc7: 74,8%; Nguyễn Nguyên Trang8: 78,6%). Sự khác biệt này có thể do khác biệt về phần mềm siêu âm, dân số nghiên cứu, vùng sinh sống, cũng như tình trạng kiểm soát huyết áp và nhịp tim vốn được ghi nhận khá tốt trong nhóm bệnh nhân của chúng tôi tại TP.HCM.

Tỷ lệ 37,8% cho thấy một phần đáng kể bệnh nhân ĐTĐ típ 2 dù chưa có triệu chứng lâm sàng vẫn đã có tổn thương cơ tim sớm. Điều này nhấn mạnh vai trò của siêu âm tim đánh dấu mô (STE) trong tầm soát và quản lý sớm biến chứng tim mạch ở bệnh nhân ĐTĐ, đặc biệt ở những trường hợp HbA1c cao, bệnh lâu năm hoặc có biến chứng vi mạch như albumin niệu.

Rối loạn lipid máu và GLS:

Trong nghiên cứu của chúng tôi, triglyceride (TG) là chỉ số mỡ máu duy nhất khác biệt có ý nghĩa giữa hai nhóm GLS, với mức TG cao hơn rõ ở nhóm GLS <18% (2,2 [1,5–2,9] so với 1,5 [1,1–2,2] mmol/L; p = 0,005). Điều này có ý nghĩa lâm sàng, vì TG phản ánh tình trạng rối loạn chuyển hóa đi kèm đề kháng insulin và tổn thương vi mạch – những yếu tố đã được chứng minh liên quan đến suy giảm chức năng cơ tim dưới lâm sàng. Về cơ chế, TG cao gây tích tụ acid béo trong tế bào cơ tim, dẫn đến tổn thương ty thể, viêm vi mạch và xơ hóa nội mạc – các yếu tố làm giảm GLS sớm. Trong khi đó, các thành phần lipid khác như LDL-C, HDL-C và cholesterol toàn phần dù có xu hướng bất lợi ở nhóm GLS thấp nhưng không đạt ý nghĩa thống kê. Nguyên nhân có thể do cỡ mẫu hạn chế hoặc tỷ lệ sử dụng statin cao (>90%) làm giảm biến thiên các chỉ số lipid này. Thật vậy, TG ít được kiểm soát hơn trong thực hành lâm sàng, và bản chất “động” hơn, liên quan đến chuyển hóa năng lượng và tích lũy lipid trong cơ tim khiến TG nhạy hơn với rối loạn cơ học tim sớm.

Các nghiên cứu trước như của Lin Na9 (2023) và Yanyan Chen4 (2023) cũng khẳng định mối liên hệ nghịch giữa TG và GLS, trong đó TG là yếu tố nguy cơ độc lập. Tuy nhiên, trong phân tích đa biến của chúng tôi, mối liên hệ giữa TG và GLS giảm dần khi điều chỉnh thêm HbA1c và UACR, cho thấy ảnh hưởng của TG có thể gián tiếp thông qua kiểm soát đường huyết và tổn thương vi mạch. Do đó, đánh giá nguy cơ tim mạch nên bao gồm TG bên cạnh LDL-C. Các chiến lược giảm TG (thay đổi lối sống, tối ưu hóa statin, cân nhắc liệu pháp bổ sung) và theo dõi song hành với GLS có thể hữu ích trong quản lý nhóm bệnh nhân nguy cơ cao.

Tình trạng tăng đường huyết và GLS:

Nhiều nghiên cứu cho thấy tăng HbA1c có liên quan chặt chẽ đến rối loạn chức năng thất trái dưới lâm sàng (GLS giảm), do tăng đường huyết mạn tính thúc đẩy hình thành AGEs, xơ hoá mô kẽ và rối loạn vi tuần hoàn cơ tim. HbA1c phản ánh kiểm soát đường huyết dài hạn, có giá trị tiên lượng GLS tốt hơn so với glucose máu lúc đói (FPG).

Trong nghiên cứu của chúng tôi, nhóm có GLS <18% có HbA1c trung vị cao hơn rõ rệt (8,2% so với 7,0%; p < 0,001). HbA1c cũng là yếu tố dự báo độc lập trong hồi quy đa biến (OR = 1,75; p = 0,008), phù hợp với các nghiên cứu của tác giả Yan Yan Chen4 và Nguyễn Thị Thanh Trúc7. Điều này củng cố vai trò trung tâm của HbA1c trong tiến trình tổn thương cơ tim ở bệnh nhân đái tháo đường type 2.

Phân tích ROC cho thấy HbA1c có khả năng phân biệt khá tốt (AUC = 0,711). Ngưỡng 7,15% cho độ nhạy cao (82,9%) phù hợp sàng lọc; ngưỡng 7,95% cho độ đặc hiệu cao hơn (79,4%) phù hợp xác định. FPG cao hơn ở nhóm GLS bất thường nhưng không đạt ý nghĩa (p = 0,124), cho thấy HbA1c phản ánh nguy cơ tổn thương cơ tim tốt hơn FPG.

Trong bối cảnh kiểm soát đường huyết còn hạn chế tại Việt Nam (HbA1c trung bình 7,9%; chỉ 36,1% đạt mục tiêu <7%), việc sàng lọc sớm tổn thương cơ tim bằng GLS, đặc biệt ở bệnh nhân có HbA1c ≥ 7,95%, là cần thiết ngay cả khi EF còn bảo tồn và chưa có triệu chứng. Đây là cơ hội để can thiệp sớm, tối ưu kiểm soát đường huyết và giảm nguy cơ tiến triển bệnh cơ tim đái tháo đường.

Biến chứng thận và GLS:

Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ số albumin/creatinin nước tiểu (UACR) là chỉ dấu tổn thương thận vi mạch sớm có liên quan chặt chẽ với giảm chức năng cơ tim dọc (GLS <18%). UACR là yếu tố dự báo độc lập trong cả phân tích đơn biến (OR = 1,94; p = 0,021) và đa biến (OR = 1,85; p = 0,042), trong khi creatinine và eGFR không cho thấy khác biệt giữa hai nhóm GLS. Điều này cho thấy UACR có thể cảnh báo tổn thương cơ tim sớm trước khi các chỉ số thận truyền thống thay đổi. Kết quả phù hợp với các nghiên cứu của tác giả Yanyan Chen4 (OR = 2,48) và nghiên cứu TESEO10 cho thấy tăng UACR làm tăng 6 lần nguy cơ giảm GLS, cho thấy tính ổn định của mối liên hệ UACR và GLS trong nhiều quần thể. Ngoài ra, nghiên cứu của tác giả Roy11 tại Ấn Độ cũng ghi nhận mối liên quan giữa protein-niệu và giảm GLS, củng cố giả thuyết về sự tiến triển song hành giữa tổn thương vi mạch và rối loạn cơ tim dưới lâm sàng. Dù cỡ mẫu nhỏ và tỷ lệ sử dụng thuốc bảo vệ tim thận (RASi, SGLT2i) cao có thể làm giảm độ mạnh của mối liên hệ, phát hiện này vẫn cho thấy tiềm năng ứng dụng lâm sàng của UACR. Với tính đơn giản, chi phí thấp và phổ biến, UACR đang được úng dụng tầm soát bệnh thận đái tháo đường bên cạnh đó có thể được sử dụng như một chỉ dấu sớm giúp nhận diện nguy cơ rối loạn chức năng tim ở bệnh nhân đái tháo đường, từ đó hỗ trợ tầm soát và can thiệp sớm nhằm làm chậm tiến trình suy tim.

KẾT LUẬN

Nghiên cứu của chúng tôi trên 109 bệnh nhân đái tháo đường típ 2 có phân suất tống máu (EF) bảo tồn tại Bệnh viện Đa khoa Vạn Hạnh cho thấy tỷ lệ rối loạn chức năng tâm thu thất trái dưới lâm sàng, xác định qua chỉ số biến dạng dọc toàn bộ thất trái (GLS <18%), là 37,6%. Đây là một tỷ lệ đáng lưu ý, cho thấy tổn thương cơ tim đã hiện diện sớm ngay cả khi bệnh nhân chưa có triệu chứng lâm sàng.

Phân tích hồi quy cho thấy chỉ số HbA1c và tỷ số albumin/creatinin nước tiểu (UACR) là hai yếu tố dự báo độc lập có ý nghĩa thống kê liên quan đến tình trạng giảm GLS, lần lượt với OR = 1,752 và OR = 1,848. HbA1c thể hiện gánh nặng tăng đường huyết mạn tính, trong khi UACR phản ánh tổn thương vi mạch thận, cả hai đều cho thấy mối liên hệ mật thiết với rối loạn cơ học tim dưới lâm sàng. Triglyceride có liên quan ở phân tích đơn biến nhưng mất ý nghĩa trong phân tích đa biến, cho thấy mối liên hệ này có thể bị trung gian bởi yếu tố đường huyết và tổn thương vi mạch.

Kết quả nghiên cứu khẳng định giá trị của siêu âm tim đánh dấu mô trong phát hiện sớm rối loạn chức năng thất trái dưới lâm sàng ở bệnh nhân đái tháo đường. Việc kết hợp theo dõi GLS, HbA1c và UACR trong quản lý bệnh nhân không chỉ giúp sàng lọc sớm biến chứng tim mạch mà còn góp phần tối ưu hóa chiến lược điều trị nhằm làm chậm tiến triển bệnh cơ tim đái tháo đường.

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO

  1. Pop-Busui R, Januzzi JL, Bruemmer D, et al. Heart Failure: An Underappreciated Complication of Diabetes. A Consensus Report of the American Diabetes Association. Diabetes Care. 2022;45(7):1670-1690. doi:10.2337/dci22-0014
  2. Urlić H, Kumrić M, Vrdoljak J, et al. Role of Echocardiography in Diabetic Cardiomyopathy: From Mechanisms to Clinical Practice. Journal of Cardiovascular Development and Disease. 01/26 2023;10:46. doi:10.3390/jcdd10020046
  3. Thomas JD, Edvardsen T, Abraham T, et al. Clinical Applications of Strain Echocardiography: A Clinical Consensus Statement From the American Society of Echocardiography Developed in Collaboration With the European Association of Cardiovascular Imaging of the European Society of Cardiology. Journal of the American Society of Echocardiography. doi:10.1016/j.echo.2025.07.007
  4. Chen Y, Zhang Y, Wang Y, et al. Assessment of subclinical left ventricular systolic dysfunction in patients with type 2 diabetes: Relationship with HbA1c and microvascular complications. Journal of Diabetes. 02/22 2023;15doi:10.1111/1753-0407.13369
  5. Nguyen KT, Diep BTT, Nguyen VDK, Van Lam H, Tran KQ, Tran NQJIJoDiDC. A cross-sectional study to evaluate diabetes management, control, and complications in 1631 patients with type 2 diabetes mellitus in Vietnam (DiabCare Asia). 2020;40(1):70-79.
  6. Mochizuki Y, Tanaka H, Matsumoto K, et al. Clinical features of subclinical left ventricular systolic dysfunction in patients with diabetes mellitus. Cardiovascular Diabetology. 2015/04/17 2015;14(1):37. doi:10.1186/s12933-015-0201-8
  7. Nguyễn, Thị Thanh Trúc; Lê, Minh Khôi. SUY GIẢM BIẾN DẠNG TỔNG DỌC THẤT TRÁI TRÊN SIÊU ÂM

ĐÁNH DẤU MÔ CƠ TIM Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2. 2023;

  1. Nguyễn, Nguyên Trang. NGHIÊN CỨU CHỨC NĂNG TÂM THU THẤT TRÁI BẰNG KỸ THUẬT SIÊU ÂM ĐÁNH DẤU MÔ CƠ TIM Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG TÍP 2. 2024;
  2. Na L, Cui W, Li X, Chang J, Xue X. Association between the triglyceride–glucose index and left ventricular global longitudinal strain in patients with coronary heart disease in Jilin Province, China: a cross-sectional study. Cardiovascular Diabetology. 11/22 2023;22doi:10.1186/s12933-023-02050-9
  3. Barutta F, Andreis A, Bellettini M, et al. Albuminuria is independently associated with preclinical left ventricular systolic dysfunction: The TESEO study. 2025;16(9):106914.
  4. Roy S, Kant R, Kumar B, Khapre M, Bairwa M. Systolic dysfunction in asymptomatic type 2 diabetic patients, a harbinger of microvascular complications: A cross-sectional study from North India. Diabetes & Vascular Disease Research. 2020/07/01 2020;17(4):1479164120944134. doi:10.1177/1479164120944134
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
XEM THÊM

DANH MỤC

THÔNG BÁO