Biên dịch: Ths.Bs. NGUYỄN VĂN THẢO1,2
HÀ NHƯ THUẦN1,3*
1 Phòng Khám Đa Khoa Cardio
2 Hiệp hội Tăng huyết áp Quốc tế
3 Trường Đại học Y Dược Huế
Tóm tắt
Việc sử dụng theo dõi huyết áp lưu động ở trẻ em và thanh thiếu niên đã tăng lên rõ rệt kể từ công bố báo cáo khoa học cuối cùng của Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ về theo dõi huyết áp lưu động ở nhi khoa vào năm 2014. Ngoài ra, cũng đã có nhiều bằng chứng về sử dụng theo dõi huyết áp lưu động ở quần thể nhi khoa, bao gồm dữ liệu mới liên kết mức huyết áp lưu động với sự phát triển của tổn thương cơ quan đích liên quan đến huyết áp. Cuối cùng, dữ liệu bổ sung gần đây đã được công bố cho phép đơn giản hóa việc phân loại các nghiên cứu theo dõi lưu động ở nhi khoa. Báo cáo khoa học này trình bày một đánh giá ngắn gọn về bằng chứng mới này, hướng dẫn về ứng dụng tối ưu của theo dõi huyết áp lưu động trong môi trường lâm sàng và sơ đồ phân loại cập nhật để diễn giải huyết áp lưu động ở trẻ em và thanh thiếu niên. Chúng tôi cũng nêu bật những vùng không chắc chắn cần nghiên cứu bổ sung.
Từ khóa: Công bố khoa học AHA; Thanh Thiếu niên: Theo dõi huyết áp lưu động; Nhi khoa; Tăng huyết áp
Lượng lớn dữ liệu liên kết mức huyết áp (HA) ở thanh niên với tăng huyết áp ở người trưởng thành1 và tổn thương cơ quan đích (TOD, target organ damage) cận lâm sàng.2 Các nghiên cứu dịch tễ đã chứng minh mối liên quan giữa HA phòng khám hoặc tăng huyết áp được chẩn đoán ở thanh niên với bệnh tim mạch xơ vữa và tử vong sớm.3 Tuy nhiên, HA lưu động (HALĐ), nghĩa là, nhiều chỉ số HA thu được trong toàn bộ khoảng thời gian 24 giờ, có khả năng phân biệt tốt hơn tình trạng HA thực tại và tiên lượng TOD tốt hơn so với HA phòng khám ở người trưởng thành và là mục tiêu điều trị tốt hơn đối với liệu pháp điều trị đích ở quần thể nhi khoa nguy cơ cao.4 Vì vậy, Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ (AAP, American Academy of Pediatrics) 2017 “Hướng dẫn Thực hành Lâm sàng để Tầm soát và Quản lý Huyết áp Cao ở Trẻ em và Thanh thiếu niên” khuyến nghị theo dõi huyết áp lưu động ở tất cả trẻ em nghi ngờ mắc tăng huyết áp trên cơ sở đo HA tại phòng khám để xác định chẩn đoán tăng huyết áp.5 Trên cơ sở dữ liệu mới liên kết với mức HALĐ với TOD ở thanh niên , tuyên bố khoa học này cung cấp hướng dẫn cập nhật về việc áp dụng và giải thích HALĐ ở bệnh nhi.
Ngoài vai trò mở rộng của HALĐ trong chẩn đoán và quản lý tăng huyết áp ở nhi khoa, hướng dẫn thực hành lâm sàng AAP 2017 (HDTHLS) bao gồm các bảng HA nhi khoa quy chuẩn mới dựa trên cân nặng bình thường của trẻ em và các định nghĩa HA đã sửa đổi kết hợp các điểm cắt tĩnh đối với thanh thiếu niên ≥ 13 tuổi.5 Những sửa đổi này phù hợp với các vấn đề được cập nhật về tăng huyết áp ở người trưởng thành bởi Hiệp hội Tim mạch Hoa Kỳ (AHA) và Trường Tim mạch Hoa Kỳ (ACC) ban hành vào năm 2017.6 Áp dụng những giá trị quy chuẩn HA mới này và định nghĩa từ Chương trình khảo sát nghiên cứu sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia 1999 đến năm 2014 đã cho kết quả dữ liệu là 5,8% thanh niên được phân loại lại thành giai đoạn HA cao hơn.7 Việc sử dụng các tiêu chí mới cũng liên quan đến việc tăng độ nhạy xác định các yếu tố nguy cơ bổ sung đới với bệnh tim mạch do xơ vữa ở thanh niên, chẳng hạn như chỉ số khối cơ thể cao, rối loạn lipid máu, tiền đái tháo đường và với TOD liên quan đến HA.8
Yếu tố nguy cơ tim mạch ở quần thể nhi khoa
Bảo vệ sức khỏe tim mạch lý tưởng là điều cần thiết để ngăn ngừa bệnh tim mắc phải khi trưởng thành. Các yếu tố nguy cơ liên quan đến bệnh tim mạch (CVD, Cardiovascular disease), bao gồm HA cao và tăng HA, phát triển ở thời thơ ấu và tiếp diễn ở tuổi trưởng thành.1 Tăng huyết áp ở nhi khoa vẫn là một yếu tố nguy cơ chính đối với sự phát triển của bệnh tim mắc phải ở tuổi trưởng thành, tăng cường tầm quan trọng của việc chẩn đoán và điều trị sớm. Trong số những người THA giai đoạn 1 và giai đoạn 2 trước 40 tuổi, tỷ lệ biến cố của CVD lần lượt là 3,15 và 8,04 trên 1000 người-năm.9 Điều đáng chú ý là tỷ lệ lưu hành CVD ở người trưởng thành giảm từ 49,2% xuống 9,3% khi loại trừ HA. Do đó, xác định và điều trị tăng huyết áp ở nhi khoa có khả năng có tác dụng đáng kể trong việc phòng ngừa bệnh tim mạch ở người trưởng thành.
HA và Nguy cơ đối với TOD
HA cao thời thơ ấu có liên quan đến TOD trong suốt thời kỳ thanh niên và tuổi trưởng thành. Các tài liệu mở rộng liên quan đến việc tăng HA với những thay đổi bất lợi về độ dày lớp trung-nội mạc động mạch cảnh (cIMT), vận tốc sóng mạch, phì đại thất trái (LVH) và nhận thức thần kinh.10 Những người có HA cao liên tục trong thời thơ ấu và tuổi trưởng thành có nguy cơ tương đối cao hơn đối với cIMT11 và tốc độ sóng mạch12 khi trưởng thành hơn những người có HA bình thường. Người trưởng thành có tiền sử HA cao thời thơ ấu mà sau này HA bình thường hóa thì không có sự gia tăng đáng kể cIMT khi trưởng thành, 11 ủng hộ tầm quan trọng của việc điều trị tăng huyết áp ở nhi khoa để giảm nguy cơ trong tương lai. Những thay đổi về cIMT, tốc độ sóng mạch, LVH và nhận thức thần kinh cũng xảy ra trong thời thơ ấu và có liên quan đến việc HA cao được chẩn đoán bởi theo dõi HALĐ.13
Dữ liệu gần đây cũng ủng hộ khái niệm rằng phơi nhiễm kéo dài với HA cao có liên quan đến kết cục trung gian ngắn hạn và dài hạn‚ bao gồm LVH và suy giảm nhận thức thần kinh.14,15 Cả LVH2 và những thay đổi trong chức năng tâm thu và tâm trương thất trái16 xảy ra ở trẻ em ở mức HA dưới ngưỡng mức HA để chẩn đoán tăng huyết áp hiện tại. Cuối cùng, các nghiên cứu dọc đã chỉ ra rằng gánh nặng dài hạn của việc tăng HA tâm thu (HATT) 15 trong thời kỳ thanh thiếu niên có liên quan đến LVH của người trưởng thành.
Tính hữu dụng của theo dõi HALĐ để phân loại HA
Ưu điểm chính của theo dõi HALĐ là giảm HA tăng cao do lo lắng khi đo (tức là tăng huyết áp áo choàng trắng, white coat hypertension [WCH]), và để đánh giá các kiểu chu kỳ sinh học của HA. Phân loại bệnh nhân thành các kiểu hình HA khác nhau (Bảng 1) giúp phân tầng nguy cơ và hướng dẫn điều trị. Khi HA tại phòng khám và HALĐ đều bình thường, bệnh nhân được coi là huyết áp bình thường. Khi ngược lại, bệnh nhân bị tăng huyết áp lưu động. Khi chỉ số HA đo bằng 2 kỹ thuật là khác nhau, bệnh nhân bị tăng huyết áp WCH hoặc tăng huyết áp ẩn dấu
Bảng 1. Phân loại sửa đổi đối với các nghiên cứu huyết áp lưu động ở bệnh nhân nhi khoa
Nhóm | Huyết áp phòng khám tâm thu và tâm trương* | Huyết áp lưu động trung bình tâm thu và tâm trương | ||
< 13 tuổi | ≥ 13 tuổi | < 13 tuổi | ≥ 13 tuổi | |
Huyết áp bình thường | < 95th bách phân vị | < 130/80 | < 95th bách phân vị HOẶC điểm cắt thanh thiếu niên* | < 125/75 mmHg 24-h VÀ < 130/80 mmHg khi tỉnh VÀ < 110/65 mmHg khi ngủ |
WCH | ≥ 95th bách phân vị | ≥ 130/80 | ||
Tăng huyết áp ẩn dấu | < 95th bách phân vị | < 130/80 | ≥ < 95th bách phân vị HOẶC điểm cắt thanh thiếu niên* | ≥ 125/75 mmHg 24-h VÀ ≥ 130/80 mmHg khi tỉnh VÀ ≥ 110/65 mmHg khi ngủ |
Tăng huyết áp lưu động | ≥ 95th bách phân vị | ≥ 130/80 |
- Bao gồm Huyết áp 24h, khi tỉnh, và khi ngủ. WCH: white coat hypertension: tăng huyết áp áo choàng trắng.
Tăng huyết áp áo choàng trắng
WCH được chẩn đoán khi HA tại phòng khám nằm trong khoảng THA, nhưng HALĐ thì bình thường (bảng 1). Tỷ lệ lưu hành WCH được báo cáo tại các trung tâm giới thiệu trong số trẻ được giới thiệu để đánh giá tăng HA tại phòng khám rất khác nhau nhưng là phổ biến.17 Dữ liệu hiện có chỉ ra rằng trẻ bị WCH có khối lượng cơ thất trái và các dấu hiệu tiền lâm sàng khác của CVD cao hơn ở bệnh nhân HA bình thường nhưng thấp hơn hơn ở những người bị tăng huyết áp lưu động.17 Mặc dù một số nghiên cứu cho thấy rằng WCH có thể không phải là kiểu hình HA ổn định, 18 mô hình điều trị và theo dõi rất khác nhau giữa các trung tâm, cho thấy sự cần thiết của các nghiên cứu tiền cứu về thanh niên mắc WCH.
Tăng huyết áp ẩn dấu
Tăng huyết áp ẩn dấu được chẩn đoán khi HA phòng khám bình thường nhưng HALĐ cao. Tăng huyết áp ẩn dấu có thể được chẩn đoán dựa trên một số bối cảnh, bao gồm tăng HA khi thức đơn độc, tăng HA khi ngủ đơn độc (tăng huyết áp về đêm), hoặc kết hợp. Chúng tôi tin rằng HA không trũng đơn độc (xem phần Tăng huyết áp về đêm) trong trường hợp không có tăng HA trung bình nói chung, không được coi là một dạng tăng huyết áp ẩn dấu.
Tương đối ít nghiên cứu ước tính tỷ lệ hiện mắc bệnh tăng huyết áp ẩn dấu quần thể nhi khoa nói chung. Một nghiên cứu gần đây đã mô tả một tỷ lệ lưu hành từ 8% đến 10% tùy thuộc vào HDTHLS AAP hoặc hướng dẫn của Hiệp hội Tăng huyết áp Châu Âu được sử dụng để phân loại HA tại phòng khám. 19 Tăng huyết áp ẩn dấu dường như xuất hiện phổ biến hơn ở những bệnh nhân bị bệnh thận mãn tính (CKD), hẹp eo động mạch chủ đã sửa chữa và béo phì (Bảng 2). 20–22 Bất kể bệnh sinh là gì, tăng huyết áp ẩn dấu đã được chứng minh là có liên quan đến tăng khối cơ thất trái ở thanh niên có các tình trạng nguy cơ cao.23,24
Bảng 2. Tình trạng lâm sàng và các cơ sở khác cần xem xét kỹ việc theo dõi huyết áp lưu động
Tình trạng | Cơ sở lý luận về theo dõi huyết áp lưu động |
Tăng huyết áp phòng khám | Xác nhận chẩn đoán |
Tăng huyết áp thứ phát | Xác định tăng huyết áp ẩn dấu bao gồm tăng huyết áp về đêm, bất thường trũng HA |
Bệnh thận mạn tính | Xác định tăng huyết áp ẩn dấu bao gồm tăng huyết áp về đêm; đánh giá huyết áp động mạch trung bình và huyết áp mục tiêu để tối ưu hóa liệu pháp, làm chậm sự tiến triển của bệnh và đảo ngược tổn thương toàn bộ cơ quan |
Hẹp eo động mạch chủ | Phát hiện tăng huyết áp tái phát / ẩn dấu sau nhiều năm khi sửa chữa |
Đái tháo đường type 1 và type 2 | Xác định sự biến đổi bất thường của chu kỳ sinh học; tối ưu hóa liệu pháp để ngăn ngừa/điều trị albumin niệu vi lượng và các thay đổi mạch máu |
Béo phì | Xác định tăng huyết áp ẩn dấu bao gồm tăng huyết áp về đêm (có thể báo hiệu chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn đi kèm) và trũng HA bất thường; tối ưu hóa liệu pháp để đảo ngược tổn thương toàn bộ cơ quan đích |
Ngưng thở khi ngủ | Đặc trưng cho mức độ nghiêm trọng của tăng huyết áp, xác định tăng huyết áp về đêm hoặc bất thường trũng HA |
Hội chứng genetic | Xác định các dạng huyết áp bất thường gợi ý nguyên nhân thứ phát của tăng huyết áp, chẳng hạn như hẹp động mạch thận và hẹp eo động mạch chủ |
U sợi thần kinh type 1 | |
Hội chứng Turner | |
Hội chứng Williams | |
Điều trị thuốc hạ huyết áp | Đánh giá mức độ đầy đủ của việc kiểm soát huyết áp và khả năng kháng điều trị rõ ràng, đánh giá các triệu chứng hạ huyết áp |
Nghiên cứu | Giảm yêu cầu về kích thước mẫu cho các thử nghiệm lâm sàng; xác định các mô hình theo dõi huyết áp lưu động cụ thể liên quan đến nguy cơ tim mạch cao |
Tính hữu hiệu trong các tình trạng bệnh mạn tính
Các kiểu chu kỳ sinh học HA bất thường thường gặp ở trẻ em thường đặc hiệu với các chẩn đoán cơ bản. Tăng huyết áp về đêm thường gặp ở trẻ em mắc bệnh hồng cầu hình liềm, 25 bệnh suy thận, 26 chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn, 27 bệnh lupus ban đỏ hệ thống, 28 và bệnh thận đa nang chiếm ưu thế 29 và ở những người được ghép tạng đặc.30 Một số trẻ với các chẩn đoán y khoa thường có tiên lượng lành tính hơn có những bất thường đáng kể được ghi nhận trên theo dõi HALĐ: một phần ba số trẻ mắc hội chứng thận hư nhạy cảm với steroid bị tăng huyết áp lưu động và 72% bị tăng huyết áp về đêm31; 50% trẻ sinh non có HA bất thường về đêm, 32 cũng như 82% trẻ bị thận đơn độc.33Các bất thường về HA về đêm có liên quan đến các biện pháp khác nhau của TOD ở các quần thể bệnh nhân đa dạng, bao gồm cả bệnh đái tháo đường type 1. 26,28,34
Yếu tố quyết định của AHA
HA hệ thống là kết quả của các quá trình sinh lý phức tạp thay đổi để đáp ứng với các yếu tố khác nhau, bao gồm tư thế (nằm ngửa, ngồi, đứng), mức độ hoạt động thể chất, giấc ngủ và căng thẳng. HALĐ được thiết kế để đánh giá HA trên nhiều khía cạnh chức năng nhằm cung cấp cái nhìn đầy đủ hơn về HA của một cá nhân trong các hoạt động bình thường hàng ngày.
Khi thiết lập giá trị HALĐ bình thường ở bệnh nhi, cần xem xét các đặc điểm khác nhau có thể ảnh hưởng đến HATT và HATTr. Ở trẻ em và thanh thiếu niên, tuổi tác là một yếu tố quan trọng quyết định cả sự thay đổi của HA tâm thu và HA trong 24 giờ.35 Giới tính là yếu tố dự báo HALĐ cao hơn; giới tính nam có liên quan đến tỷ lệ HALĐ cao hơn.35 Tình trạng thừa cân và béo phì cũng liên quan đến tăng HALĐ.36
Hoạt động làm tăng HA; do đó, giá trị HALĐ cao hơn so với đo HA tại phòng khám khi nghỉ ngơi. Một nghiên cứu cho thấy rằng việc gia tăng hoạt động thể chất được đo bằng phương pháp đo hoạt động kí có tương quan thuận với việc tăng HATT, HA tâm trương (HATTr) và nhịp tim trên HALĐ 24 giờ.37
Giấc ngủ là một yếu tố quyết định quan trọng khác của HA. Trong những trường hợp bình thường, HA giảm từ 10% đến 20% trong khi ngủ, một hiện tượng được gọi là “trũng” (“dipping”). Không trũng là khi mức giảm HA trong khi ngủ là <10%, và trũng nghich đảo là khi HA ngủ trung bình cao hơn HA trung bình khi thức. Không trũng và trũng nghịch đảo có liên quan đến việc tăng nguy cơ mắc các kết cục tim mạch bất lợi ở tuổi trưởng thành, 38 nhưng thiếu sự theo dõi lâu dài ở thanh niên.
Các yếu tố quyết định có khả năng xảy ra khác của HALĐ bao gồm trương lực tự động,39 độ cứng mạch máu hoặc các thông số động mạch thụ động,40 thể tích máu tương đối và việc sử dụng các thuốc như chất kích thích được kê đơn cho chứng rối loạn tăng động/giảm chú ý.41
Dữ liệu quy chuẩn cho HALĐ
HALĐ khác với HA tại phòng khám khi nghỉ ngơi, cần có dữ liệu quy chuẩn cụ thể. Dữ liệu được sử dụng rộng rãi nhất cho mục đích này là từ Wühl và cộng sự,35 người đã phân tích các phép đo HALĐ từ 949 trẻ em Trung Âu khỏe mạnh từ 5 đến 20 tuổi bằng cách sử dụng phương pháp bình phương trung bình nhỏ nhất để cung cấp cả giá trị tham chiếu theo tuổi-giới và chiều cao-giới. Rất tiếc, tập dữ liệu này không chứa giá trị tham chiếu cho trẻ em có chiều cao <120 cm và các giá trị HATTr có sự thay đổi tối thiểu giữa các phân bố chiều cao và độ tuổi. Ngoài ra, những dữ liệu này được thu thập bằng cách sử dụng một thiết bị HALĐ đo dao động đặc hiệu. Thiết bị đo dao động ước tính HA thông qua các thuật toán đặc hiệu dành riêng cho thiết bị sử dụng áp lực động mạch trung bình được đo để tính toán các giá trị tâm thu và tâm trương. Do đó, HATT và HATTr được tính toán có thể khác nhau tùy theo thiết bị và việc sử dụng thiết bị khác với thiết bị được sử dụng trong bộ dữ liệu Wühl có thể ảnh hưởng đến phân loại của bệnh nhân. Một cách tiếp cận hợp lý khi tiến hành HALĐ với một thiết bị không phải là thiết bị được sử dụng để lấy dữ liệu Wühl có thể là sử dụng áp lực động mạch trung bình, áp lực này nên được so sánh giữa các thiết bị khác nhau.
Dữ liệu mới hơn từ 1445 trẻ em Trung Quốc từ 8 đến 17 tuổi có chiều cao từ 119 đến 185 cm sử dụng thiết bị HALĐ khác đã được công bố cao hơn giá trị Wühl.42 Liệu các cơ sở dữ liệu này có thể được kết hợp để xem xét sự khác biệt về lối sống cơ bản và các đặc điểm khác cần nghiên cứu cẩn thận. Trong thời gian chờ đợi, các giá trị HALĐ trong tập dữ liệu Wühl vẫn là tài liệu tham khảo tốt nhất hiện có theo quan điểm của chúng tôi.
Nhiều thiết bị HA không vòng bít mới đang được phát triển hứa hẹn cho việc theo dõi HA lưu động liên tục và gián đoạn. Chưa có một quy trình chung để kiểm tra độ chính xác của các thiết bị này, do đó, các thiết bị này chưa thể được khuyến nghị sử dụng cho nhi khoa.
Ứng dụng tiêu chuẩn của HALĐ
Việc chấp nhận HALĐ và các khuyến nghị cho việc sử dụng nó thường xuyên ở trẻ em và thanh thiếu niên đã phát triển theo thời gian. Mặc dù Báo cáo lần thứ tư năm 2004 cho biết HALĐ có thể hữu ích trong một số trường hợp lâm sàng được lựa chọn, nhưng hướng dẫn về tăng huyết áp ở nhi khoa năm 2016 của Hiệp hội Tăng huyết áp Châu Âu 43 và HDTHLS5 năm 2017 hiện đã xác nhận việc sử dụng HALĐ rộng rãi hơn nhiều trong việc đánh giá và quản lý bệnh tăng huyết áp ở thanh niên. Do đó sẽ được thảo luận ở phần sau trong tuyên bố khoa học này, những lỗ hổng kiến thức liên quan đến một số khía cạnh của HALĐ ở nhi khoa vẫn còn; nhưng bất chấp những khoảng cách đó, HALĐ hiện có thể được coi là một thủ thuật thường quy trong phòng khám tăng huyết áp nhi khoa.
Bây giờ chúng tôi trình bày cách tiếp cận của chúng tôi để thực hiện HALĐ ở trẻ em và thanh thiếu niên dưới dạng danh sách, mà chúng tôi hy vọng sẽ hữu ích cho các bác sĩ lâm sàng.
- Các chỉ định để thực hiện HALĐ thường xuyên bao gồm:
- Để xác định chẩn đoán tăng huyết áp ở bệnh nhân tăng huyết áp trên cơ sở đo HA tại phòng khám.
- Phân biệt giữa tăng huyết áp lưu động và WCH.
- Để đánh giá tốt hơn HA ở bệnh nhân có HA tại phòng khám cao liên tục nhưng không nằm trong khoảng tăng huyết áp.5
- Đánh giá khả năng tăng huyết áp ẩn dấu khi có nghi ngờ về tăng huyết áp trên lâm sàng, nhưng số đo HA tại phòng khám bình thường hoặc trong khoảng HA cao.
- Để đánh giá mô hình HA ở bệnh nhân nguy cơ cao (Bảng 2):
- Đánh giá sự thay đổi bất thường trong chu kỳ sinh học của HA, chẳng hạn như bất thường trũng huyết áp, hoặc tăng huyết áp về đêm đơn độc ở bệnh nhân đái tháo đường, CKD, ghép tạng đặc, và béo phì nặng với có hoặc không có rối loạn nhịp thở khi ngủ.
- Đánh giá mức độ nghiêm trọng và kéo dài của tình trạng tăng HA ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị tăng huyết áp TOD.
- Để tối ưu hóa điều trị bằng thuốc cho bệnh tăng huyết áp:
- Xác nhận kiểm soát HA ở bệnh nhân được điều trị5
- Đánh giá tình trạng tăng huyết áp giả đề kháng44
- Xác định xem các triệu chứng gợi ý hạ huyết áp có thể được xác nhận như vậy không.
- Nên chọn thiết bị HALĐ phù hợp để sử dụng cho trẻ em:
- Chỉ sử dụng các thiết bị HALĐ dao động hoặc thính chẩn đã được xác nhận theo Viện Tiêu chuẩn Quốc gia Hoa Kỳ (ANSI)/Hiệp hội vì sự Tiến bộ của Thiết bị Y tế (AAMI)/Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO) 45. Tiêu chuẩn Hiệp hội Tăng huyết áp Anh46 được chấp nhận cho các thiết bị được bán trên thị trường trước khi công bố tiêu chuẩn ANSI/AAMI/ISO.
- Kích thước vòng bít phù hợp theo khuyến nghị trong HDTHLS5 2017 phải có sẵn cho thiết bị được chọn.
- Sử dụng cách tiếp cận tiêu chuẩn để thu được các nghiên cứu HALĐ:
- Tốt nhất, HALĐ ở nhi khoa nên được thực hiện bởi nhân viên được đào tạo về ứng dụng thiết bị ở trẻ em và thanh thiếu niên, và diễn giải dữ liệu HALĐ ở bệnh nhi.
- Đặt màn hình trong môi trường văn phòng để cho phép kiểm tra độ chính xác như được mô tả sau trong báo cáo khoa học này và để giáo dục bệnh nhân tối ưu.
- Màn hình nên được áp dụng cho cánh tay không thuận trừ khi có chống chỉ định (ví dụ, sự hiện diện của một đường vào lọc máu vĩnh viễn).
- Nếu có sự chênh lệch >5 mm Hg về HA phòng khám giữa 2 cánh tay, hãy đặt vòng bít lên cánh tay có HA cao hơn.
- Ở những bệnh nhân bị hẹp eo động mạch chủ đã được sửa chữa với giải phẫu mạch cánh tay bình thường, hãy đặt vòng bít ở cánh tay phải.
- Các thiết bị nên được lập trình để ghi lại HA sau mỗi 15 đến 20 phút trong giờ thức và mỗi 20 đến 30 phút trong khi ngủ.
- HA nên được đo với máy đo và so sánh với các giá trị HA tại phòng khám khi nghỉ ngơi trên cùng một cánh tay với một máy đo đã được kiểm chứng khác sử dụng cùng kỹ thuật giống như máy đo lưu động (thính chẩn hoặc đo dao động). Điều này có thể xác định sự không chính xác tiềm ẩn với HALĐ (lựa chọn/vị trí vòng bít, thiết bị cần sửa chữa) và hỗ trợ giải thích các phép đo HALĐ.
- Bệnh nhân nên ghi lại việc dùng thuốc hạ huyết áp, thời gian tập thể dục, hoạt động bất thường, giấc ngủ và thời gian thức vào nhật ký.
- Một nghiên cứu tối ưu đáp ứng các tiêu chí sau:
- Thời gian theo dõi kéo dài 24 giờ. Khoảng thời gian ngắn từ 18 đến 20 giờ có thể được chấp nhận nếu thời gian ngủ được nắm bắt và nếu các tiêu chí nêu sau trong báo cáo khoa học này được đáp ứng.
- Ít nhất 70% của tất cả các kết quả được thử là thành công trong thời gian theo dõi.47
- Thông thường, điều này sẽ dẫn đến tối thiểu 40 đến 50 kết quả đọc thành công trong thời gian theo dõi.
- Các nghiên cứu dưới mức tối ưu có thể cung cấp thông tin hữu ích về mặt lâm sàng, nhưng lý tưởng nhất là nên lặp lại.
- Nên đọc ít nhất 1 chỉ số HA mỗi giờ, kể cả trong khi ngủ.
- Bản ghi HALĐ nên được chỉnh sửa cho các giá trị ngoại lai:
- Các phép đo HA và nhịp tim khi thức và ngủ của từng cá nhân cần được xem xét để tìm các giá trị nằm ngoài phạm vi bình thường đáng kể đối với tuổi của bệnh nhân
- Thông thường, các giá trị nằm ngoài các phạm vi sau đây nên bị loại bỏ:
- HATT <60 mm Hg hoặc > 220 mm Hg
- HATTr <35 mm Hg hoặc > 120 mm Hg
- Nhịp tim <40 nhịp/phút hoặc > 200 nhịp/phút
- Hiệu áp <40 mm Hg hoặc > 120 mm Hg
- Tốt nhất, các giới hạn này nên được lập trình trong phần mềm HALĐ để giảm thiểu việc chỉnh sửa chủ quan dữ liệu HALĐ.
- Bất kỳ phép đo HA nghỉ ngơi nào được thực hiện bằng thiết bị HALĐ ngay sau khi gắn thiết bị đo HA (ví dụ: các kết quả đo kiểm tra) cũng phải bị loại bỏ.
- Nên loại trừ các phép đo khi vận động mạnh (theo dữ liệu nhật ký).
- Các tính toán tiêu chuẩn phải được báo cáo:
- HATT và HATTr lưu động trung bình trong toàn bộ thời gian 24 giờ, thức và ngủ.
- Tải trọng HA (phần trăm số lần đọc trên giá trị ngưỡng) không còn được xem xét trong phân loại kiểu hình HALĐ (xem cơ sở lý luận trong phần Tải trọng huyết áp).
- Cần xác định mức độ trũng (phần trăm chênh lệch ngày đêm) ([HA trung bình lúc thức – HA ngủ trung bình lúc ngủ] / HA trung bình lúc thức] * 100) cho cả HATT và HATTr.
- Thời gian thức-ngủ do bệnh nhân ghi lại từ nhật ký nên được sử dụng để biểu thị thời gian thức và ngủ để phân tích.
- Các nghiên cứu theo dõi HALĐ nên được giải thích bằng cách sử dụng dữ liệu quy chuẩn thích hợp cho nhi khoa:
- Giá trị theo dõi HALĐ nên được so sánh với dữ liệu HALĐ đặc hiệu về giới tính và chiều cao thu được ở quần thể lớn nhi khoa chứ không phải với mức HA lúc nghỉ.
- Một lược đồ được đề xuất để phân giai đoạn theo dõi HALĐ được bao gồm trong Bảng 1.
(Vui lòng xem tiếp trong kỳ sau)