Google search engine

Bản tin tổng hợp – Tháng 2/2019

TÓM TẮT XỬ TRÍ NGUY CƠ VÀ BỆNH TIM MẠCH Ở BỆNH NHÂN ĐÁI THÁO ĐƯỜNG THEO HỘI ĐÁI THÁO ĐƯỜNG HOA KỲ (ADA) 2019

 

Lần đầu tiên, Trường môn Tim mạch Hoa Kỳ tham gia bảo trợ cho chủ đề này. Các kiến thức suy tim được bổ sung thêm vào như là loại bệnh tim mạch quan trọng ở những người mắc bệnh ĐTĐ và xác định những chăm sóc tối ưu. Các khuyến cáo về huyết áp đã được sửa đổi để nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cá thể hóa mục tiêu HA dựa trên nguy cơ tim mạch. Tham luận về sử dụng thích hợp việc tính nguy cơ bệnh tim mạch do xơ vữa (ASCVD) được đưa vào và các khuyến cáo được sửa đổi để đưa đánh giá nguy cơ  ASCVD 10 năm vào như một phần trong đánh giá nguy cơ tổng thể để xác định điều trị tối ưu. Khuyến cáo liên quan đến việc sử dụng aspirin trong phòng ngừa tiên phát đã được cập nhật dữ liệu mới. Để phù hợp với báo cáo đồng thuậncủa American Diabetes Association – European Association for the Study of Diabetes (ADA-EASD), hai khuyến cáo đã được thêm vào cho việc sử dụng những thuốc đã được chứng minh có lợi về tim mạch ở những người mắc ASCVD, có và không có bị suy tim.

 

Tính nguy cơ tim mạch

Tính nguy cơ ASCVD của ACC/AHA (Công cụ ước tính rủi ro Plus) nói chung là một công cụ hữu ích để ước tính nguy cơ ASCVD 10 năm (http://tools.acc.org/ASCVD-Risk-Estimator-Plus). Trong cách tính này có ĐTĐ là một yếu tố nguy cơ, vì chính ĐTĐ làm tăng nguy cơ mắc ASCVD, mặc dù phải thừa nhận rằng cách tính nguy cơ này không tính đến thời gian mắc ĐTĐ  hoặc sự hiện diện của các biến chứng ĐTĐ như albumin niệu. Nguy cơ 10 năm của ASCVD đầu tiên nên được đánh giá để tốt hơn cho việc phân tầng nguy cơ ASCVD và hướng dẫn điều trị. Gần đây, những thang điểm nguy cơ và các dấu ấn sinh học tim mạch khác đã được phát triển để phân tầng nguy cơ trong dự phòng thứ phát (tức là, đã có ASCVD) nhưng chưa được sử dụng rộng rãi. Với các liệu pháp hạ lipid mới hơn, đắt tiền hơn và đã sẵn có, việc sử dụng các đánh giá nguy cơ này có thể giúp nhắm mục tiêu cho các liệu pháp mới này ở những BN ASCVD, nguy cơ cao hơn trong tương lai.

Kiểm soát tăng huyết áp (THA)

Huyết áp nên được đo tại mỗi lần khám lâm sàng thường quy. BN được phát hiện có HA cao (≥ 140/90 mmHg) nên được xác nhận trị số huyết áp bằng nhiều lần đo, bao gồm đo vào một ngày khác, để chẩn đoán THA. B

Tất cả BN THA mắc ĐTĐ nên theo dõi huyết áp tại nhà. B

Đối với BN mắc ĐTĐ và THA, mục tiêu huyết áp nên được cá thể hóa thông qua chia sẽ quyết định chung về nguy cơ tim mạch, tác dụng phụ tiềm tàng của các thuốc hạ áp và sở thích của BN. C

Đối với những người mắc ĐTĐ và THA tại mức nguy cơ tim mạch cao (đã bị ASCVD hoặc nguy cơ ASCVD 10 năm > 15%), mục tiêu huyết áp <130/80 mmHg là hợp lý nếu nó có thể đạt được một cách an toàn. C

Đối với những người mắc ĐTĐ và THA có nguy cơ mắc bệnh tim mạch thấp hơn (nguy cơ ASCVD 10 năm <15%), điều trị đạt huyết áp mục tiêu <140/90 mmHg. A

Ở những BN mang thai mắc ĐTĐ và THA có từ trước đang điều trị thuốc chống THA, mục tiêu huyết áp là 120-160 / 80-105 mmHg được đề xuất nhằm tối ưu hóa sức khỏe của mẹ lâu dài và giảm thiểu chậm phát triển của thai nhi. E

Đối với BN có huyết áp> 120/80 mmHg, can thiệp lối sống bao gồm giảm cân nếu thừa cân hoặc béo phì, liệu pháp ăn kiêng theo chế độ DASH được khuyến cáo bao gồm giảm natri và tăng kali, điều chỉnh lượng rượu và tăng hoạt động thể lực. B

BN có huyết áp đo tại phòng khám ≥140 / 90 mmHg, ngoài thay đổi lối sống, nên khởi trị và điều chỉnh thuốc để đạt được mục tiêu huyết áp. A

BN có huyết áp đo tại phòng khám ≥160 / 100 mmHg, ngoài thay đổi lối sống, nên khởi trị và điều chỉnh liều với hai loại thuốc HA hoặc viên kết hợp nhằm làm giảm các biến cố tim mạch ở BN bị ĐTĐ. A

Điều trị THA nên bao gồm các nhóm thuốc được chứng minh là làm giảm các biến cố tim mạch ở BN bị ĐTĐ (ức chế men chuyển, ức chế thụ thể angiotensin, lợi tiểu giống thiazide hoặc chẹn kênh canxi dihydropyridine). A

Điều trị nhiều loại thuốc thường cần thiết nhằm đạt được huyết áp mục tiêu. Tuy nhiên, không nên sử dụng kết hợp thuốc ức chế men chuyển và thuốc ức chế thụ thể angiotensin và kết hợp thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể angiotensin với thuốc ức chế renin trực tiếp. A

Thuốc ức chế men chuyển hoặc thuốc ức chế thụ thể angiotensin, ở liều tối đa có thể dung nạp là điều trị được lựa chọn đầu tiên được khuyến cáo đối với THA ở BN tiểu đường và có tiểu protein (albumin-creatinine trong nước tiểu ≥300 mg / g) A hoặc tiểu albumin (30-299 mg / g). B. Nếu một loại không được dung nạp, loại khác nên được thay thế. B

Đối với những BN được điều trị bằng thuốc ức chế men chuyển, thuốc ức chế thụ thể angiotensin hoặc thuốc lợi tiểu, creatinine huyết thanh / mức lọc cầu thận ước tính và kali huyết thanh nên được theo dõi ít ​​nhất mỗi năm. B

BN bị THA không đạt được HA mục tiêu khi đã sử dụng 3 nhóm thuốc hạ huyết áp (bao gồm cả thuốc lợi tiểu) nên xem xét điều trị đối kháng thụ thể khángcorticoid.B

Xử trí mỡ máu

Thay đổi lối sống tập trung vào việc giảm cân (nếu có chỉ định); áp dụng chế độ ăn kiêng Địa Trung Hải hoặc chế độ ăn kiêng THA (DASH); giảm chất béo bão hòa và chất béo trans; tăng lượng axit béo n-3, chất xơ nhớt và lượng stanol/sterol thực vật trong chế độ ăn uống; và tăng hoạt động thể lực được khuyến cáo nhằm cải thiện dung mạo lipid và giảm nguy cơ phát triển bệnh tim mạch xơ vữa ở BN tiểu đường. A

Tích cực thay đổi lối sống và kiểm soát đường huyết tối ưu cho BN có triglyceride tăng (≥150 mg/dL [1,7 mmol/L]) và / hoặc HDL thấp (<40 mg/dL [1,0 mmol/L] / nam giới, <50 mg/dL [1,3 mmol/L] / nữ). C

Ở người trưởng thành không điều trị statin hoặc liệu pháp hạ lipid khác, khảo sát dung mạo lipid tại thời điểm chẩn đoán ĐTĐ là hợp lý, tại thời điểm đánh giá y tế ban đầu và cứ sau mỗi 5 năm nếu < 40 tuổi hoặc thường xuyên hơn khi có chỉ định. E

Cần khảo sát dung mạo lipid khi bắt đầu điều trị statin hoặc liệu pháp hạ lipid khác, 4-12 tuần sau khi khởi trị hoặc thay đổi liều, và hàng năm sau đó để giúp theo dõi đáp ứng với điều trị và thông tin cho việc tuân trị bằng thuốc. E

Đối với BN mắc ĐTĐ ở mọi lứa tuổi và có ASCVD hoặc nguy cơ 10 năm ASCVD > 20%, statin cường độ cao nên thêm vào cùng thay đổi lối sống. A

Đối với BN mắc ĐTĐ <40 tuổi có thêm các yếu tố nguy cơ cho mắc ASCVD, BN và nhà lâm sàng nên cân nhắc sử dụng statin cường độ trung bình bên cạnh liệu pháp thay đổi lối sống. C

Đối với BN mắc ĐTĐ ở độ tuổi 40-75 tuổi A và> 75 tuổi B không mắc ASCVD, cần sử dụng statin cường độ trung bình cùng với liệu pháp thay đổi lối sống.

Ở những BN mắc ĐTĐ có nhiều yếu tố nguy cơ ASCVD, cân nhắc điều trị statin cường độ cao là hợp lý. C

Những BN không dung nạp được cường độ dự định, liều statin tối đa có thể dung nạp nên được sử dụng. E

Những BN mắc ĐTĐ và có ASCVD, nếu cholesterol LDL ≥ 70 mg/dL với liều statin tối đa  có thể dung nạp, cần xem xét thêm liệu pháp giảm LDL bổ sung (như ezetimibe hoặc thuốc ức chế PCSK9). A Ezetimibe có thể được ưa chuộng hơn do chi phí thấp.

Điều trị bằng statin bị chống chỉ định trong thai kỳ. B

BN có triglyceride lúc đói ≥500 mg/dL (5,7 mmol/L), cần đánh giá nguyên nhân thứ phát của tăng triglyceride máu và xem xét điều trị nội khoa để làm giảm nguy cơ viêm tụy. C

Những người bị tăng triglyceride máu trung bình (triglyceride đói hoặc không đói 175-499 mg/dL), các bác sĩ lâm sàng nên giải thích và điều trị các yếu tố của lối sống (béo phì và hội chứng chuyển hóa), các yếu tố thứ phát (tiểu đường, bệnh gan hoặc thận mãn tính và/hoặc hội chứng thận hư, suy giáp) và điều chỉnh các loại thuốc làm tăng triglyceride. C

Điều trị kết hợp (statin/fibrate) không cho thấy cải thiện kết cục ASCVD và nói chung là không được khuyến cáo. A

Điều trị kết hợp (statin/niacin) không cho thấy mang lại lợi ích tim mạch thêm vào trên nền điều trị statin đơn thuần, có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ với các tác dụng phụ thêm vào và nói chung không được khuyến cáo. A

Chống kết tập tiểu cầu

Điều trị aspirin (75-162 mg/ngày) được khuyến cáo cho phòng ngừa thứ phát ở những người mắc ĐTĐ và có ASCVD. A

Những BN bị ASCVD và có dữ liệu ghi nhận dị ứng aspirin, nên sử dụng clopidogrel (75 mg / ngày). B

Điều trị kháng tiểu cầu kép (với aspirin liều thấp và chất ức chế P2Y12) là hợp lý trong một năm sau hội chứng mạch vành cấp A và có thể có lợi ích vượt qua giai đoạn này. B

Điều trị bằng Aspirin (75-162 mg/ngày) có thể được xem xét như là chiến lược phòng ngừa tiên phát ở những người ĐTĐ tại mức nguy cơ tim mạch tăng, sau khi thảo luận với BN về lợi ích so với nguy cơ chảy máu. C

Bệnh Tim mạch

Ở những BN không có triệu chứng, tầm soát thường quy bệnh mạch vành không được khuyến cáo vì nó không cải thiện kết cục miễn là các yếu tố nguy cơ ASCVD được điều trị. A

Xem xét tầm soát bệnh mạch vành khi có bất kỳ những điều nào sau đây: các triệu chứng tim mạch không điển hình (ví dụ, khó thở không giải thích được, cảm giác khó chịu ở ngực); các dấu hiệu hoặc triệu chứng của bệnh mạch máu đi kèm bao gồm tiếng hẹp động mạch cảnh, cơn thoáng thiếu máu não, đột quỵ, đau cách hồi hoặc bệnh động mạch ngoại biên; hoặc có bất thường trên điện tâm đồ (ví dụ: sóng Q). E

Những BN đã biết bệnh ASCVD, hãy xem xét thuốc ức chế men chuyển hoặc ức chế thụ thể angiotensin để giảm nguy cơ biến cố tim mạch. B

BN bị nhồi máu cơ tim trước đó, thuốc chẹn nên sử dụng ít nhất 2 năm sau biến cố. B

Ở những BN ĐTĐ2 bị suy tim sung huyết ổn định, metformin có thể được sử dụng nếu độ lọc cầu thận ước tính vẫn > 30 ml/phút nhưng nên tránh ở những BN suy tim không ổn định hoặc nhập viện bị suy tim sung huyết.B

Trong số những BN mắc ĐTĐ2 đã có ASCVD, thuốc ức chế SGLT2 hoặc thuốc đồng vận GLP1 với lợi ích tim mạch đã được chứng minh được khuyến cáo là một phần của chế độ chống tăng đường huyết. A

Ở những BN có ASCVD tại mức nguy cơ cao bị suy tim hoặc hiện tại có suy tim, thuốc ức chế SGLT2 được ưa chuộng. C

 

T.T.P.

(Theo http://www.diabetes.org/)

 

ASPIRIN TRONG PHÒNG NGỪA TIÊN PHÁT TẠO RA SỰ TRANH CÃI VỚI KẾT QUẢ TỪ CÁC THỬ NGHIỆM MỚI

 

               Kết quả từ 2 thử nghiệm lâm sàng chính được trình bày tại cuộc họp của Hội Tim mạch Châu Âu hồi tháng 8 đã làm dấy lên nghi ngờ về lợi ích của việc sử dụng aspirin trong phòng ngừa tiên phát ở những bệnh nhân có nguy cơ trung bình mắc bệnh tim hoặc bị đái tháo đường. Một thử nghiệm lớn thứ ba, ASPREE (Aspirin trong việc giảm cácbiến cốở người cao tuổi), được công bố sau đó, làm tăng thêm nghi ngờ về bất kỳ lợi ích sống còn nào trong việc sử dụng aspirin phòng ngừatiên phát.

 

               Thử nghiệm ARRIVE (Aspirin to Reduce Risk of Initial Vascular Events: Aspirin để giảm nguy cơ biến cố mạch máu ban đầu) được xuất bản đồng thời trên The Lancet, là nghiên cứu ngẫu nhiêngồm trên12.000 bệnh nhân châu Âu và bệnh nhân chăm sóc sức khỏe ban đầu ở Hoa Kỳ,từ 55 đến 60 tuổi có nguy cơ trung bình mắc bệnh tim mạch, sử dụng aspirinliều100 mg hoặc giả dược hàng ngày và theo dõi họ trong 5 năm. Không có giảm tỷ lệ mắc các biến cố tim mạch nặngtrong nhóm aspirin. Trên thực tế, tỷ lệ biến cố tim mạch thấp hơn so với dự kiến ​​của tất cả những người tham gia, điều mà nghiên cứuviên chính của nó, J. Michael Gaziano – Giáo sư Y khoa tại Harvard và Bác sĩ Tim mạch Dự phòng tại Bệnh viện Brigham và Women’s ở Boston, quy là do thay đổilối sống và các biện pháp phòng ngừa y tế khác. Ví dụ, ông lưu ý rằng 43% đang dùng statin và khoảng hai phần ba là dùng thuốc điều trị tăng huyết áp.  

               Trong khi đó, Aspirin không làm giảm các biến cốtim mạch nặngtrong nghiên cứu này,” Gaziano nói. “Tuy nhiên, có ít biến cốhơn dự kiến, cho thấy thực tế, đây là một cộng đồng có nguy cơ thấp”. 

 

Các nghiên cứu mới cho thấy: một viên aspirin mỗi ngày để phòng ngừa tiên phát bệnh tim

có thể không bảo vệ tim.

 

               Một thử nghiệm lớn thứ hai được trình bày tại cuộc họp, thử nghiệm ASCEND (Nghiên cứu về các biến cốtim mạch trong đái tháo đường) đã được công bố đồng thờitrên Tạp chí Y học New England, chỉ định ngẫu nhiên hơn 15.000 bệnh nhân đái tháo đường với 100 mg aspirin hoặc giả dược hằng ngày. Aspirin làm giảm nguy cơ biến cố mạch máu đầu tiên, nhưng tác dụng phụ là xảy ra các biến cốchảy máu nghiêm trọng cần nhập viện– theo nhà nghiên cứu Jane Armitage, Giáo sư thử nghiệm lâm sàng và dịch tễhọc tại Khoa Sức khoẻ cộng đồng của Đại học Oxford ở Vương quốc Anh.

 

               “Khi chúng tôi xem xét sự cân bằng giữa lợi ích và nguy cơ, chúng tôi thấy rằng những lợi ích tuyệt đối từ việc tránh các biến cốtim mạch nghiêm trọng cân bằngvới việc tăng nguy cơ chảy máu,” theo ông Armitage tại cuộc họp. “Chúng tôi không thể xác định bất kỳ nhóm người tham gia cụ thể nào mà lợi ích rõ ràng vượt xa rủi ro”.

               Nghiên cứu ASCEND cũng không tìm thấy giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng trong suốt quá trình theo dõi trung bình 7 năm của thử nghiệm, mặc dù có rất nhiều bệnh ung thư trong số những người tham gia, Armitage nói. Gaziano và các đồng nghiệp dự kiến ​​sẽ phân tích các rủi ro ung thư đại trực tràng trong một ấn phẩm sau đó, ông lưu ý.

               Kết quả của thử nghiệm ASPREE, được công bố trên Tạp chí Y học New England vào tháng 9, đã làm tăng thêm nghi ngờ về lợi ích của aspirin trong phòng ngừa tiên phát. Thử nghiệm đó đã xem xét việc sử dụng 100 mg aspirin mỗi ngày ở những người từ 70 tuổi trở lên mà không mắc bệnh tim, mất trí nhớ hoặc khuyết tật và không tìm thấy lợi ích sốngcòn. Trên thực tế, nghiên cứu đã tìm thấy tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân cao hơn ở nhóm dùng aspirin. Các tác giả lưu ý rằng ung thư là một yếu tốchính cho sự gia tăng tử vong trong nhóm aspirin.

 

Một kết quả khác?

 

               Việc sử dụng aspirin trong phòng ngừa thứ phát ở những bệnh nhân đã bị nhồi máu cơtim hoặc đột quỵ đạt kết quả tốt. Nhưng kết quả từ các nghiên cứu trước đây về aspirin để phòng ngừa tiên phátcòn chưa đồng nhất, cùng với lo ngại về nguy cơ chảy máu nghiêm trọng liên quan đến việc sử dụng nó, đã khiến nhiều bác sĩ thận trọng.

               Trên thực tế, các hướng dẫn lâm sàng chính đưa ra lời khuyên mâu thuẫn, Erin D. Michos, MD, Phó Giám đốc Tim mạch Dự phòng tại Trung tâm Ciccarone về Phòng ngừa Bệnh Tim tại Trường Y Johns Hopkins ở Baltimore, lưu ý. Hướng dẫn của Châu Âu khuyến cáo không nên sử dụng aspirin để phòng ngừa tiên phátvì nguy cơ chảy máu. Cơ quanphòng ngừabệnh ởHoa Kỳ khuyến cáo dùng aspirin để phòng ngừa tiên phát bệnh tim và ung thư đại trực tràng cho những người ở độ tuổi từ 50 đến 59 có nguy cơ chảy máu thấp, và nguy cơ mắc bệnh tim mạch10 năm là 10% và quyết định sẽ tùy từng cá thểcho những người từ 60 đến 69 tuổi và ở ngưỡng nguy cơ. Hội đái tháođường Hoa Kỳ đề cập đến việc sử dụng aspirin cho bệnh nhân đái tháođường từ 50 tuổi trở lên với ít nhất 1 yếu tố nguy cơ tim mạch nặng.

 

               “Chúng tôi đã có khá nhiều tranh cãi về việc có nên sử dụng aspirin cho phòng ngừa tiên phát không, với sự khác biệttrong trong các hướng dẫn từ các tổ chức lớn” – ông Micheal Michos nói.Thật không may, các thử nghiệm ARRIVE và ASCEND dường như không cho thấy sẽ giúp giải quyết vấn đề này sớm.  

               Thay vào đó, cả hai thử nghiệm dường như củng cố nhu cầu xem xét nguy cơ riêng lẽcủa từng cá thể, Daniel Muñoz, MD, MPA, Trợ lý Giáo sư Y khoa và Giám đốc Y tế về Chất lượng tại Viện Vanderbilt Heart và Vascular ở Nashville, Tennessee cho biết. Ông lưu ý rằng ông rất vui vì các thử nghiệm đã được công bố cùng nhau, cung cấp những hiểu biết sâu sắc về hai nhóm bệnh nhân quan trọng.

               “Cả ARRIVE và ASCEND đều không tiết lộ bất kỳ vấn đềnào còn lại về aspirin trong phòng ngừa tiên phát,” ông Munoz nói. “Điều đócho thấy nghĩa vụ của thầy thuốc nhằmđưa ra quyết định phù hợp với từng cá thểvàchọn lọc bệnh nhân dùng aspirin đểphòng ngừa tiên phát.”

 

Quyết định chung?

               Chia sẻ quyết định chung là điều cần thiết cho những vấn đềnhư vậy, đặc biệt bởi vì nhiều bệnh nhân cảm thấy thoải mái với ý tưởng về một viên aspirin mỗi ngày như một công cụ phổ biến để phòng ngừa các biến cố tim mạch.

               “Những nghiên cứu này củng cố nhu cầu của chúng tôi để tư vấn cho bệnh nhân một cách cẩn thận về những rủi ro và lợi ích,” theo ông Munoz.“Một phần trong số đó sẽ phản hồi lại những giả định trước đây về lợi ích của aspirin. Điều đó đòi hỏi một cuộc trò chuyện và ra quyết định chung.”

               Michos lưu ý rằng nhiều bệnh nhân của cô cho rằng aspirin an toàn hơn statin vì là thuốc bán không cần kê toa. Nhưng cô ấy sử dụng chủ yếu statin để phòng ngừa tiên phát vì chúng làmgiảm nguy cơtương đối phù hợp hơn và tính an toàn tốt hơn. Với aspirin, cô cảnh báo về nguy cơ chảy máu tiềm ẩn, mặc dù cô vẫn có thể cân nhắc nó cho bệnh nhân có chỉ số vôi hóađộng mạch vành cao.

               “Sự nhiệt tình của tôi trong việc sử dụng aspirin trong phòng ngừa tiên phát đã bị giảm sút nghiêm trọng,” cô nói.

               Tỷ lệ biến cố tim mạch thấp hơn dự kiến ​​trong thử nghiệm ARRIVE có thể gợi ý rằng những thay đổi trong chiến lược dự phòng đã có hiệu lực. Michos lưu ý các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các công cụ như Pooled Cohort Equations có thể đánh giá quá cao rủi ro trong dân số hiện đại. Việc sử dụng statinnhiều hơn, thuốc hạ áp nhiều hơn và các chiến lược thay đổi lối sống khác cũng có thể làm giảm nguy cơ, Michos và Muñoz đồng ý.

               “Aspirin có thể đóng một vai trò nhỏ hơn trong nền tảng của y tế dự phòng”,Michos nói.

               Cả Michos và Muñoz đều thừa nhận vẫn còn những câu hỏi cần được trả lời về aspirin trong phòng ngừa tiên phát. Michos lưu ý rằng chỉ 30% những người tham gia thử nghiệm ARRIVE là phụ nữ, một phần là do nguy cơ10 năm của họ đối với biến cốtim mạch thấp, khiến việc đánh giá nguy cơvà lợi ích của phụ nữ khó khăn hơn.

 

“Phụ nữ tham gia vào các thử nghiệm lâm sàng về tim mạch rất ítvà khó đưa ra kết luận về sự khác biệt giới tính của điều trị thuốc, mặc dù không có sự khác biệt đáng kể nào về giới tính trong ARRIVE,” cô nói.

               Một câu hỏi quan trọng khác là liệu các phân nhóm bệnh nhân có thể được hưởng lợi từ việc phòng ngừa tiên phát bằng aspirinkhông.

               “Chúng tôi nhận thấy càng ngày càng nhiều bệnh nhânkhông thể dùng aspirin để phòng ngừa tiên phátvà vì vậy công việc tiếp theo có thể giúp xác định liệu thực sự có tồn tại một phân nhóm bệnh nhân mà việc phòng ngừa tiên phát bằng aspirin có hiệu quả hay không”, Munoz nói. 

 

(Lược dịch từ Aspirin for Primary Prevention Takes a Hit With New Trial Results. Circulation. 2018;138:2713–2714. DOI: 10.1161/CIRCULATIONAHA.118.038570)

 

 

BÀI VIẾT LIÊN QUAN
XEM THÊM

DANH MỤC

THÔNG BÁO