TRỌNG TÂM CỦA HỘI NGHỊ THƯỜNG NIÊN 2024 HIỆP HỘI TIM MẠCH CHÂU ÂU
CÁC HƯỚNG DẪN VỀ TĂNG HUYẾT ÁP, BẢNG TÓM TẮT CÁC SỐ LIỆU THỐNG KÊ VỀ BỆNH TIM MẠCH, VÀ NHỮNG TUYÊN BỐ ĐỒNG THUẬN VỀ BỆNH BÉO PHÌ
Tác giả: GS Filippo Crea
Trung tâm Khoa học Tim Mạch Ospedale Isola Tiberina – Rome, Ý, và Trường đại học Công Giáo của Sacred Heart, Ý)
Bài đăng trên Tạp chí Tim Mạch Châu Âu, số 45, 2024
Bài viết này tập trung về bệnh Tăng Huyết Áp và dịch tễ học, phòng ngừa và các chính sách chăm sóc sức khỏe được đưa vào ‘Các hướng dẫn của Hiệp hội Tim Mạch Châu Âu (ESC) năm 2024 về quản lý huyết áp cao và tăng huyết áp: Được phát triển bởi lực lượng đặc nhiệm về quản lý huyết áp cao và tăng huyết áp của Hiệp hội Tim mạch Châu Âu (ESC) và được Hiệp hội Nội tiết Châu Âu (ESE) và Tổ chức Đột quỵ Châu Âu (ESO) xác nhận’. Các hướng dẫn của năm 2024 này cập nhật những nội dung đã được khuyến cáo trong Hướng dẫn ESC/Hiệp hội Tăng huyết áp Châu Âu (ESH) năm 2018 về quản lý tăng huyết áp động mạch. Tài liệu hiện tại dựa trên các hướng dẫn trước đây, tuy nhiên điểm khác biệt của nó là sự kết hợp các cập nhật quan trọng và khuyến nghị mới dựa trên những bằng chứng hiện tại. Một thay đổi lớn dựa trên bằng chứng trong Hướng dẫn năm 2024 là khuyến cáo theo đuổi mục tiêu huyết áp tâm thu (HATTh) là 120–129 mmHg ở người lớn đang dùng thuốc hạ huyết áp. Khuyến cáo này có một số lưu ý quan trọng, bao gồm: (i) yêu cầu bệnh nhân phải dung nạp tốt phương pháp điều trị theo mục tiêu huyết áp tâm thu này; (ii) thực tế là có thể cân nhắc mục tiêu hạ huyết áp tâm thu dễ dãi hơn ở những người bị hạ huyết áp tư thế có triệu chứng, những người từ ≥85 tuổi hoặc những người suy nhược từ trung bình đến nặng hoặc tuổi thọ hạn chế; và (iii) nhấn mạnh vào việc đo huyết áp tâm thu ngoài phòng khám để xác nhận rằng đã đạt được mục tiêu huyết áp tâm thu là 120–129 mmHg. Đối với những trường hợp được chọn mà không theo đuổi mục tiêu HATTh tâm thu là 120–129 mmHg do không dung nạp hoặc có các tình trạng bệnh lý ủng hộ cho mục tiêu HATTh dễ dãi hơn, các chuyên gia đề nghị nên nhắm mục tiêu HATTh ở mức thấp nhất có thể đạt được một cách hợp lý. Việc ra quyết định lâm sàng được cá nhân hóa và các thoả thuận chung giữa bác sĩ với bệnh nhân cũng được nhấn mạnh.
Trong số báo này cũng tóm lược nội dung Bài báo đặc biệt có tiêu đề ‘Hội Tim mạch Châu Âu: Atlas Thống kê Bệnh tim mạch năm 2023’ của tác giả Adam Timmis, đến từ Đại học Queen Mary London tại Vương quốc Anh và các đồng nghiệp. Báo cáo này từ Dự án Atlas của Hội Tim mạch Châu Âu (ESC) cập nhật và mở rộng báo cáo năm 2021 trong việc trình bày số liệu thống kê về bệnh tim mạch (BTM) cho các quốc gia thành viên của Hiệp Hội Tim Mạch Châu Âu. Nội dung của nó đề cập đến những xem xét về sự bất bình đẳng trong chăm sóc sức khỏe tim mạch và kết quả ở các quốc gia Châu Âu bằng cách sử dụng dữ liệu về tỷ lệ tử vong và yếu tố nguy cơ từ Tổ chức Y tế Thế giới và Nghiên cứu Gánh nặng Bệnh tật Toàn cầu, với dữ liệu bổ sung về các vấn đề liên quan đến kinh tế từ Ngân hàng Thế giới. Dữ liệu chăm sóc sức khỏe tim mạch được thu thập bằng bảng câu hỏi được gửi đến các hội tim mạch quốc gia của các quốc gia Châu Âu. Số liệu thống kê liên quan đến năm 2022 hoặc năm mới nhất có sẵn được trình bày. Tài liệu mới trong báo cáo này bao gồm các ước tính hiện tại về gánh nặng kinh tế của BTM và số liệu thống kê về tỷ lệ tử vong cho một loạt các kiểu hình của bệnh tim mạch phổ biến.
Hình 1. Các yếu tố nguyên nhân chính và hậu quả tim mạch của bệnh béo phì. CV, tim mạch; HFpEF, suy tim với phân suất tống máu được bảo tồn; HFrEF, suy tim với phân suất tống máu giảm; SCD, đột tử do tim
Tỷ lệ béo phì trên toàn cầu đã tăng gấp đôi trong bốn thập kỷ qua, hiện đang ảnh hưởng đến hơn một tỷ dân số toàn cầu. Trong một bài báo đặc biệt có tựa đề ‘Béo phì và bệnh tim mạch: tuyên bố đồng thuận lâm sàng của ESC’, tác giả Konstantinos C. Koskinas đến từ Đại học Bern ở Thụy Sĩ và các đồng nghiệp chỉ ra rằng ngoài việc được công nhận là một tình trạng nguy cơ cao có liên quan nhân quả đến nhiều bệnh mãn tính, béo phì đã được tuyên bố là một căn bệnh tự nó dẫn đến suy giảm chất lượng cuộc sống và giảm tuổi thọ. Đáng chú ý, hai phần ba số ca tử vong liên quan mật thiết đến béo phì là do BTM. Mặc dù mối liên hệ ngày càng được đánh giá cao giữa béo phì và một loạt các biểu hiện BTM bao gồm bệnh xơ vữa động mạch, suy tim, bệnh huyết khối tắc mạch, loạn nhịp tim và đột tử do tim, nhưng béo phì vẫn chưa được công nhận và giải quyết tối ưu so với các yếu tố nguy cơ tim mạch có thể thay đổi khác (Hình 1). Theo quan điểm về những tác động to lớn của đại dịch béo phì đối với sức khỏe cộng đồng, sự chú ý đã tập trung vào các phương pháp tiếp cận dựa trên dân số và cá nhân hóa để ngăn ngừa tăng cân quá mức và duy trì cân nặng cơ thể khỏe mạnh từ thời thơ ấu đến trong suốt cuộc đời trưởng thành, cũng như các biện pháp can thiệp giảm cân toàn diện cho những người đã biết bị béo phì. Tuyên bố đồng thuận lâm sàng này của ESC thảo luận về bằng chứng hiện tại về dịch tễ học và nguyên nhân gây béo phì; sự tương tác giữa béo phì, các yếu tố nguy cơ tim mạch và các tình trạng tim; việc quản lý lâm sàng cho những bệnh nhân mắc bệnh tim và béo phì; và các chiến lược giảm cân bao gồm thay đổi lối sống, các thủ thuật can thiệp và thuốc chống béo phì, đặc biệt tập trung vào tác động của chúng đối với nguy cơ tim mạch – chuyển hóa và kết quả tim. Tài liệu này nhằm mục đích nâng cao nhận thức về béo phì như một yếu tố nguy cơ chính và cung cấp hướng dẫn để thực hiện các biện pháp thực hành dựa trên bằng chứng để phòng ngừa và quản lý tối ưu trong bối cảnh phòng ngừa BTM nguyên phát và thứ phát.
Bằng chứng mới gần đây cho thấy rằng việc tiếp xúc với hóa chất trong môi trường là những tác nhân gây bệnh tim mạch bị bỏ qua. Trong bài báo có tựa đề ‘Các hạt micro-nano và các bệnh tim mạch: bằng chứng và quan điểm’, tác giả Francesco Prattichizzo từ Polo Scientifico e Tecnologico ở Milan, Ý và các đồng nghiệp cho rằng các hạt vi nhựa và nano nhựa (MNP) chủ yếu có nguồn gốc từ quá trình phân hủy hóa học hoặc cơ học của nhựa có thể là một yếu tố nguy cơ tim mạch mới. Dữ liệu thực nghiệm trong các mô hình tiền lâm sàng cho thấy rằng MNP có thể thúc đẩy gánh nặng oxy hóa, kết tập tiểu cầu, lão hóa tế bào và phản ứng viêm ở các tế bào nội mô và miễn dịch đồng thời thúc đẩy một loạt các thay đổi về tim mạch và chuyển hóa có thể dẫn đến bệnh tật và tử vong sớm. Ở người, MNP có nguồn gốc từ nhiều loại nhựa khác nhau, bao gồm polyethylene và polyvinylchloride, đã được phát hiện trong các mảng xơ vữa động mạch và các mô tim mạch khác, bao gồm màng ngoài tim, mô mỡ ngoài tim, cơ tim và phần phụ nhĩ trái. MNP có mức độ có thể đo được trong huyết khối và dường như tích tụ chủ yếu ở các vùng tổn thương mạch máu. Sự hiện diện của chúng trong các mảng bám động mạch cảnh có liên quan đến tỷ lệ mắc các biến cố tim mạch tăng lên sau đó. Để tiếp tục nghiên cứu vai trò nhân quả có thể có của MNP trong bệnh tim mạch, các nghiên cứu trong tương lai nên tập trung vào các nhóm đối tượng lớn, có triển vọng đánh giá mức độ tiếp xúc của cá nhân với ô nhiễm liên quan đến nhựa, các con đường hấp thụ có thể có, sự tồn tại của giới hạn an toàn được cho là, sự tương ứng giữa tiếp xúc và tích tụ trong các mô, thời gian giữa sự tích tụ và phát triển BMV và các cơ chế bệnh sinh do nồng độ MNP có liên quan gây ra. Dữ liệu từ các nghiên cứu như vậy sẽ cho phép thiết kế các chiến lược phòng ngừa hoặc thậm chí là điều trị. Trong khi đó, bằng chứng hiện có cho thấy việc giảm sản xuất và sử dụng nhựa sẽ mang lại lợi ích cho môi trường và sức khỏe con người. Mục tiêu này có thể đạt được thông qua Hiệp ước toàn cầu về nhựa của Liên hợp quốc hiện đang trong quá trình đàm phán.
Nhiều tình trạng tim của bà mẹ có liên quan đến nhau thai bất thường và giảm sự phát triển của thai nhi. Tuy nhiên, tác động của chúng đối với sức khỏe tim mạch lâu dài của những đứa trẻ này vẫn chưa được nghiên cứu đầy đủ. Trong một bài báo Nghiên cứu lâm sàng theo dõi ngắn có tựa đề ‘Bệnh tim mạch ở bà mẹ có từ trước và nguy cơ mắc bệnh tim mạch ở con cái từ khi còn nhỏ đến đầu tuổi trưởng thành’, Muhammad Zakir Hossin từ Viện Karolinska ở Stockholm, Thụy Điển và các đồng nghiệp đặt mục tiêu điều tra mối liên hệ giữa việc tiếp xúc trong tử cung với BTM có từ trước của bà mẹ và BTM ở con cái xảy ra từ khi còn trong bụng mẹ đến đầu tuổi trưởng thành, sử dụng BTM của cha làm đối chứng âm tính. Nghiên cứu theo dõi kéo dài trên phạm vi toàn quốc này đã sử dụng dữ liệu đăng ký của những đứa trẻ độc thân sống không bị dị tật lớn hoặc bệnh tim bẩm sinh sinh từ năm 1992 đến năm 2019 tại Thụy Điển. Tỷ lệ nguy cơ (HR) và khoảng tin cậy 95% (CI) được ước tính bằng mô hình nguy cơ tỷ lệ Cox, điều chỉnh theo các đặc điểm thiết yếu của bà mẹ. BTM của cha đóng vai trò là đối chứng âm tính để đánh giá các yếu tố gây nhiễu di truyền và môi trường chưa được đo lường. Trong số khoảng 2.600.000 đứa trẻ được phân tích (49% là nữ), 1% được sinh ra từ những bà mẹ đã mắc BMT từ trước. Trong thời gian theo dõi trung bình là 14 năm (dao động từ 1–29 năm), 17.382 con được chẩn đoán mắc BMV. Con của những bà mẹ mắc BMV có khả năng mắc bệnh tim mạch cao hơn 2,09 lần (tỷ số nguy cơ đã được hiệu chỉnh) so với những đứa trẻ của những bà mẹ không mắc bệnh. So với BMV của mẹ, BMV của cha cho thấy có mối liên quan, nhưng ở mức độ yếu hơn. Nguy cơ gia tăng BMV ở trẻ cũng được tìm thấy khi phân tầng bệnh tim mạch của mẹ, trong đó trẻ được các bà mẹ có tiền sử loạn nhịp có nguy cơ mắc bệnh tim cao nhất (HR 2,94), kế tiếp là tiền sử bệnh mạch máu (HR 1,59) và các bệnh tim cấu trúc (HR 1,48).
Các tác giả kết luận rằng BMV của mẹ có liên quan đến nguy cơ mắc BMV tăng lên ở trẻ trong thời thơ ấu và kéo dài đến tuổi trưởng thành. Phân tích với các yếu tố gây nhiễu cho thấy đặc điểm di truyền về BMV ở cha, hoặc người thân khác trong gia đình không giải thích được mối liên quan này.
Tăng huyết áp là một yếu tố nguy cơ quan trọng và rất phổ biến. Các thử nghiệm lâm sàng ngẫu nhiên (RCT) đánh giá Semaglutide đã báo cáo về việc giảm huyết áp (HA) tâm thu ở các quần thể thử nghiệm với huyết áp ban đầu trong phạm vi huyết áp bình thường. Trong một bài báo Nghiên cứu lâm sàng theo dõi nhanh khác có tiêu đề ‘Semaglutide và huyết áp: phân tích tổng hợp dữ liệu của từng bệnh nhân’, Cormac Kennedy từ Trường Cao đẳng Trinity Dublin ở Ireland và các đồng nghiệp đã đặt mục tiêu xác định xem mức giảm HA tâm thu này có lớn hơn ở các nhóm tăng huyết áp hay không. Dữ liệu của từng bệnh nhân từ ba nghiên cứu RCT kiểm tra tác dụng của semaglutide 2,4 mg đối với trọng lượng cơ thể trong hơn 68 tuần đã được đưa vào. Những người tham gia thử nghiệm được phân loại theo chẩn đoán, phương pháp điều trị hoặc điều trị cơ bản cho tăng huyết áp (HTN), điều trị cho HA tâm thu ban đầu > 130 mmHg (HTN130) hoặc điều trị riêng biệt cho HA ban đầu > 140mmHg (HTN140) và những người bị tăng huyết áp kháng trị rõ ràng (RH). Phân tích chính đã so sánh sự thay đổi HA tâm thu trong thử nghiệm ở nhóm dùng Semaglutide và giả dược. Sự thay đổi của thuốc được định lượng bằng điểm cường độ điều trị và so sánh giữa các nhóm. Các phân tích này được thực hiện bằng cách sử dụng phân tích hiệp phương sai. Nhìn chung, có khoảng 3100 người tham gia. Sự khác biệt về thay đổi HA tâm thu giữa các nhóm điều trị là -4,95 mmHg. Sự khác biệt này là -4,78 mmHg đối với HTN, -4,93 mmHg đối với HTN130, -4,09 mmHg đối với HTN140 và -3,16 mmHg đối với RH. Giảm HATTh chủ yếu là do giảm cân. Điểm cường độ điều trị chống tăng huyết áp giảm đối với những người dùng Semaglutide so với giả dược (Hình 2).
Hình 2. Sự khác biệt về thay đổi huyết áp tâm thu (SBP) và các thay đổi của thuốc chống tăng huyết áp đối với nhóm dùng semaglutide và nhóm dùng giả dược sử dụng dữ liệu của từng người tham gia (IPD) từ ba thử nghiệm có đối chứng ngẫu nhiên kiểm tra tác dụng của semaglutide 2,4 mg đối với cân nặng cơ thể trong 68 tuần. ANCOVA, phân tích hiệp phương sai; BP, huyết áp; CI, khoảng tin cậy.
Các tác giả kết luận rằng phân tích dữ liệu cá nhân này của ba nghiên cứu RCT lớn cho thấy việc giảm HA bằng Semaglutide ở những người tham gia bị tăng huyết áp tương tự như những người tham gia thử nghiệm. Những kết quả này cho thấy Semaglutide là một phương pháp điều trị bổ sung hữu ích cho những bệnh nhân bị tăng huyết áp và béo phì. Các tác giả kết luận rằng việc giảm 5 mmHg huyết áp tâm thu có ý nghĩa quan trọng đối với sức khỏe dân số, đặc biệt là khi xét đến tỷ lệ béo phì và tăng huyết áp cao. Các phân tích tổng hợp từ các nghiên cứu RCT cho thấy rằng rằng việc giảm 5 mmHg huyết áp tâm thu có liên quan đến việc giảm tương đối 10% nguy cơ mắc các biến cố tim mạch lớn. Các phát hiện của nghiên cứu hiện tại cho thấy rằng việc hạ huyết áp có thể là một bước trung gian quan trọng của tác dụng bảo vệ cơ quan đích của chất chủ vận thụ thể peptide giống glucagon-1 (GLP-1), và điều này đáng được nghiên cứu sâu hơn.