Trong tháng 11 và tháng 12 năm 2017 vừa qua, tại Mỹ đã diễn ra 2 Hội nghị lớn là Hội nghị Tim mạchhọcHoa Kỳ (AHA) và Hội nghị Huyết học Hoa Kỳ (ASH) – với nhiều nghiên cứu mới về thuốc kháng đông được công bố. Trong đó phải kể đến nghiên cứu Select-D(một thử nghiệm pha III phân nhóm ngẫu nhiên giữa rivaroxaban và Dalteparin)và nghiên cứu thế giới thực, phân tích hồi cứu cỡ lớn trên dân số VTE có ung thư ở Mỹ.
1. Dữ liệu thực tế lâm sàng dự phòng đột quỵ trên bệnh nhân rung nhĩ trên 80 tuổi ở Mỹ với rivaroxaban và warfarin
Rung nhĩ thường được chẩn đoán trên bệnh nhân cao tuổi, với hơn một nửa tổng số bệnh nhân có tuổi từ 80 trở lên. Tuy vậy, trong 4 nghiên cứu lớn của 4 thuốc NOACs chỉ có 25% số bệnh nhân có tuổi từ 78 trở lên. Thử nghiệm Rocket AF của rivaroxaban, phân tích trên nhóm bệnh nhân có tuổi ≥ 75 cho thấy hiệu quả và an toàn của rivaroxaban và warfarin là tương đương. Phân tích hồi cứu dữ liệu ở Mỹ của Coleman và cộng sự dưới đây nhằm đánh giá an toàn và hiệu quả trong thực tế lâm sàng của rivaroxaban so với warfarin dự phòng đột quỵ ở bệnh nhân rung nhĩ có tuổi từ 80 trở lên.
Phương pháp nghiên cứu:
Phân tích từ cơ sở dữ liệu MarketScan, bệnh nhân rung nhĩ không do van tim có tuổi ≥ 80, được chỉ định lần đầu với thuốc kháng đông là rivaroxaban và warfarin, từ tháng 11/2011 đến tháng 03/2016.
· 4398 người bệnh dùng rivaroxaban (43,4% dùng giảm liều) được bắt cặp đồng nhất với 4398 bệnh nhân dùng warfarin.
· Kết cục hiệu quả chính: tỉ lệ đột quỵ/ thuyên tắc mạch hệ thống
· Kết cục an toàn chính: Tỉ lệ xuất huyết nặng
Kết quả nghiên cứu:
Rivaroxaban giảm 39% biến cố đột quỵ/ thuyên tắc mạch hệ thống và 41% biến cố đột quỵ thiếu máu não so với warfarin.
Không khác biệt về tỉ lệ biến cố xuất huyết nặng. Tuy nhiên rivaroxaban có khuynh hướng ít hơn về biến cố đột quỵ xuất huyết và xuất huyết nội sọ.
Kết luận:
Kết quả của nghiên cứu thống nhất với kết quả ghi nhận trong nghiên cứu Rocket AF và phân tích subgroup trên nhóm bệnh nhân tuổi từ 75 trở lên. Kết quả nghiên cứu khẳng định tính an toàn và hiệu quả của rivaroxaban trên bệnh nhân tuổi cao ≥ 80 trong thực tế lâm sàng.
2. Dữ liệu mới của rivaroxaban trên bệnh nhân VTE có ung thư.
Đặt vấn đề:
VTE ở bệnh nhân ung thư là một thách thức trong thực hành lâm sàng với những khó khăn cho cả việc điều trị VTE và điều trị ung thư. Việc điều trị VTE ở bệnh nhân ung thư gặp khó khăn vì ung thư làm gia tăng cả nguy cơ tái phát VTE và nguy cơ xuất huyết nặng. Điều trị với LMWH được khuyến cáo như là điều trị chuẩn cho bệnh nhân VTE có ung thư theo khuyến cáo hiện tại (CHEST-2016), nhưng việc phải tiêm dưới da hàng ngày với LMWH là một khó khăn. Rivaroxaban và các NOACs khác có ưu điểm dùng đường uống. Cho đến nay, dữ kiện so sánh NOACs với LMWH ở bệnh nhân VTE có ung thư còn hạn chế.
Dưới đây là 2 nghiên cứu của rivaroxaban so với LMWH được báo cáo ở ASH 2017:
2.1 Thử nghiệm pha III Select D: Xarelto vs Dalteparin ở bệnh nhân VTE có ung thư.
Select D là thử nghiệm sơ bộ pha III (pilot trial), ngẫu nhiên mù đôi, tiến cứu, nhãn mở, đa trung tâm, so sánh rivaroxaban (15 mg BID trong 21 ngày đầu, từ ngày 22 trở đi 20 mg OD) với dalteparin (200 IU/kg trong 1 tháng, sau đó 150 IU/kg) ở bệnh nhân VTE có ung thư đang tiến triển.
Kết quả:
Tỉ lệ tái phát VTE tại thời điểm 6 tháng là 4% với rivaroxaban và 11% với dalteparin.
Tỉ lệ xuất huyết nặng là 5% với nhánh rivaroxaban và 3% với nhánh dalteparin. Tỉ lệ tử vong do xuất huyết thấp (0,5%) và tương đương ở 2 nhánh.
Tỉ lệ sống còn toàn bộ tại thời điểm 6 tháng là 75% với nhánh rivaroxaban, 70% ở nhánh dalteparin.
Kết luận:
Dữ liệu từ nghiên cứu Select D khẳng định thêm hiệu quả và an toàn của rivaroxaban trên bệnh nhân VTE có ung thư.
2.2. Dữ liệu thực tế lâm sàng ở Mỹ sử dụng rivaroxaban và LMWH trên bệnh nhân VTE có ung thư.
Từ cơ sở dữ liệu Health Analytics MarketScan từ tháng 1/2013 đến tháng 9/2016, Khorana AA và cộng sự tiến hành đánh giá hiệu quả phòng ngừa tái phát VTE và tính an toàn qua biến cố xuất huyết nặng giữa rivaroxaban, LMWH và warfarin trên bệnh nhân VTE có ung thư.
Kết quả:
· Tổng cộng có 12.457 bệnh nhân VTE có ung thư (LMWH: 4313; warfarin: 4774; rivaroxaban: 3370), sau đó tiến hành đồng nhất đặc điểm dân số 3 nhóm.
· Rivaroxaban giúp giảm rõ rệt tỉ lệ tái phát VTE so với LMWH, và tương đương với warfarin (tỉ lệ tái phát VTE sau 6 tháng theo dõi ở nhánh Rivaroxaban là 8,7% so với 11,7% ở nhánh LMWH, p= 0,003; sau 12 tháng theo dõi, tái phát VTE ở nhánh rivaroxaban là 11,9% so với LMWH là 14,7%, p=0,006), trong khi đó tỉ lệ xuất huyết nặng là tương đương.
Kết luận:
Phân tích hồi cứu cỡ lớn ở Mỹ trên dân số VTE có ung thư cho thấy rivaroxaban có liên quan đến giảm rõ rệt biến cố tái phát VTE so với LMWH, trong khi đó tỉ lệ biến cố xuất huyết nặng tương đương giữa 2 nhóm. Tỉ lệ biến cố tái phát VTE và xuất huyết nặng là tương đương giữa rivaroxaban và warfarin
Hiệu quả và an toàn của rivaroxaban trong thực tế lâm sàng trên bệnh nhân VTE có ung thư thống nhất với kết quả phân tích subgroup của nghiên cứu EINSTEIN DVT/PE trên nhóm bệnh nhân có ung thư.
Tổng hợp và hiệu đính: BS. NGUYỄN THANH HIỀN