Google search engine
Google search engine

Tóm tắt kết quả nghiên cứu Renove

BS.CKI VĂN THỊ BÍCH THUỶ

Giảng viên Bộ môn Nội Tổng quát – Đại học Y Dược TP. HCM

 

Thuyên tắc huyết khối tĩnh mạch (VTE), bao gồm thuyên tắc phổi (PE) và huyết khối tĩnh mạch sâu (DVT), là gánh nặng lâm sàng và kinh tế y tế lớn toàn cầu.1 Sử dụng kháng đông trong điều trị VTE nên được thực hiện ít nhất 3 tháng.2,3 Ở những bệnh nhân có nguy cơ tái phát cao, việc kéo dài sử dụng kháng đông lên tới 12 hoặc 24 tháng giúp làm giảm nguy cơ tái phát ít nhất 80%.4,5 Do đó, các hướng dẫn đều khuyến nghị kéo dài dự phòng kháng đông cho những bệnh nhân này.2,3,6

Tuy nhiên, việc sử dụng kháng đông kéo dài đi cùng với tăng nguy cơ xuất huyết.7-13 Sử dụng thuốc kháng đông liều thấp hơn là cách tiếp cận khả dĩ giúp giảm nguy cơ xuất huyết trong khi vẫn duy trì hiệu quả tương tự trong việc dự phòng VTE tái phát. Tuy nhiên hiện tại vẫn chưa có nhiều bằng chứng chắc chắn về hiệu quả và độ an toàn giữa liều chuẩn và liều thấp kháng đông trong giai đoạn điều trị VTE kéo dài.

Nghiên cứu RENOVE đã được tiến hành nhằm mục đích đánh giá tính không thua kém của kháng đông liều thấp so với liều chuẩn về mặt hiệu quả ở những bệnh nhân có nguy cơ tái phát VTE cao cần dùng kháng đông kéo dài.14

RENOVE là nghiên cứu ngẫu nhiên đa trung tâm, nhãn mở, thực hiện trên 2200 bệnh nhân VTE được điều trị kháng đông liều đầy đủ trong 6–24 tháng trước đó và có chỉ định dự phòng thứ phát kháng đông kéo dài. Bệnh nhân được phân ngẫu nhiên (1:1) vào nhóm sử dụng kháng đông liều thấp với rivaroxaban (10mg/ngày) hoặc apixaban (2,5mgx2/ngày) hoặc liều chuẩn rivaroxaban (20mg/ngày) hoặc apixaban (5mgx2/ngày).

Kết quả nghiên cứu cho thấy, nguy cơ tái phát VTE ở cả hai nhóm liều đều thấp hơn do đó giả thiết không kém hơn về hiệu quả giữa hai chế độ liều chưa được khẳng định. DOAC (rivaroxaban và apixaban) liều thấp giảm 39% nguy cơ xuất huyết nặng hoặc không nặng có ý nghĩa trên lâm sàng (HR = 0.61, 95% CI, 0.48–0.79) và 33% nguy cơ gặp các biến cố lâm sàng ròng, bao gồm biến cố tái phát VTE, xuất huyết nặng hoặc không nặng có triệu chứng lâm sàng (HR 0.67, 95% CI, 0.53–0.86).

Nghiên cứu RENOVE cho thấy tỷ lệ các biến cố tái phát VTE có triệu chứng trong quá trình dự phòng thứ phát VTE bằng kháng đông là thấp, bất kể chế độ liều, ngay cả trong nhóm dân số có nguy cơ tái phát cao sau khi ngừng điều trị kháng đông và được theo dõi trong thời gian trung bình 3 năm.14 Bên cạnh đó, sự giảm đáng kể nguy cơ xuất huyết với liều giảm là nhất quán đối với cả các biến cố xuất huyết nặng hoặc không nặng có triệu chứng lâm sàng, điều mà không quan sát được trong các thử nghiệm ngẫu nhiên vốn không được thiết kế hoặc không độ nhạy để so sánh các biến cố này (EINSTEIN-CHOICE và AMPLIFY-EXT).15,16

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO:

  1. Cohen AT et al. Thromb Haemost 2007;98:756–764.
  2. Konstantinides SV, Meyer G, Becattini C, et al. 2019 ESC Guidelines for the diagnosis and management of acute pulmonary embolism developed in collaboration with the European Respiratory Society (ERS): the Task Force for the diagnosis and management of acute pulmonary embolism of the European Society of Cardiology (ESC). Eur Respir J 2019; 54: 1901647.
  3. Stevens SM, Woller SC, Kreuziger LB, et al. Antithrombotic therapy for VTE disease: second update of the CHEST guideline and expert panel report. Chest 2021; 160: e545–608.
  4. Couturaud F, Sanchez O, Pernod G, et al. Six months vs extended oral anticoagulation after a first episode of pulmonary embolism: the PADIS-PE randomized clinical trial. JAMA 2015; 314: 31–40.
  5. Agnelli G, Prandoni P, Santamaria MG, et al. Three months versus one year of oral anticoagulant therapy for idiopathic deep venous thrombosis. N Engl J Med 2001; 345: 165–69.
  6. Khan F, Rahman A, Carrier M, et al. Long term risk of symptomatic recurrent venous thromboembolism after discontinuation of anticoagulant treatment for first unprovoked venous thromboembolism event: systematic review and meta-analysis. BMJ 2019; 366: l4363.
  7. Ortel TL, Neumann I, Ageno W, et al. American Society of Hematology 2020 guidelines for management of venous thromboembolism: treatment of deep vein thrombosis and pulmonary embolism. Blood Adv 2020; 4: 4693–738.
  8. Lecumberri R, Alfonso A, Jiménez D, et al. Dynamics of casefatality rates of recurrent thromboembolism and major bleeding in patients treated for venous thromboembolism. Thromb Haemost 2013; 110: 834–43.
  9. Johnsen SP, Rasmussen TB, Falstie-Jensen AM, et al. Effectiveness and safety of oral anticoagulation treatment beyond 1 year after venous thromboembolism in patients at intermediate recurrence risk. Basic Clin Pharmacol Toxicol 2021; 129: 210–20.
  10. Linkins LA, Choi PT, Douketis JD. Clinical impact of bleeding in patients taking oral anticoagulant therapy for venous thromboembolism: a meta-analysis. Ann Intern Med 2003; 139: 893–900.
  11. Schulman S, Kearon C, Kakkar AK, et al. Extended use of dabigatran, warfarin, or placebo in venous thromboembolism. N Engl J Med 2013; 368: 709–18.
  12. Bauersachs R, Berkowitz SD, Brenner B, et al. Oral rivaroxaban for symptomatic venous thromboembolism. N Engl J Med 2010; 363: 2499–510.
  13. Khan F, Tritschler T, Kimpton M, et al. Long-term risk for major bleeding during extended oral anticoagulant therapy for first unprovoked venous thromboembolism: a systematic review and meta-analysis. Ann Intern Med 2021; 174: 1420–29.
  14. Couturaud F, et al. Extended treatment of venous thromboembolism with reduced-dose versus full-dose direct oral anticoagulants in patients at high risk of recurrence: a non-inferiority, multicentre, randomised, open-label, blinded endpoint trial. Lancet. 2025 Mar 1;405(10480):725-735. doi: 10.1016/S0140-6736(24)02842-3.
  15. Agnelli G, Buller HR, Cohen A, et al. Apixaban for extended treatment of venous thromboembolism. N Engl J Med 2013; 368: 699–708.
  16. Weitz JI, Lensing AWA, Prins MH, et al. Rivaroxaban or aspirin for extended treatment of venous thromboembolism. N Engl J Med 2017; 376: 1211–22.
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
XEM THÊM

DANH MỤC

THÔNG BÁO