Google search engine
Google search engine

Tóm tắt hướng dẫn năm 2024 của Hội Tim mạch Châu Âu về quản lý rung nhĩ được xây dựng với sự hợp tác của hiệp hội phẫu thuật tim mạch lồng ngực Châu Âu (EACTS) – P7

TS. PHẠM HỮU VĂN

 

(…)

7.1.3. Kiểm soát tần số tim dài hạn

Kiểm soát tần số bằng thuốc có thể đạt được bằng thuốc chẹn beta, diltiazem, verapamil, digoxin hoặc điều trị kết hợp (Bảng 12) (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S15).[480]

Việc lựa chọn thuốc kiểm soát tần số phụ thuộc vào các triệu chứng, bệnh đi kèm và khả năng xảy ra tác dụng phụ và tương tác. Chỉ nên cân nhắc liệu pháp kết hợp các loại thuốc kiểm soát tần số khác nhau khi cần thiết để đạt được tần số mục tiêu và nên theo dõi cẩn thận để tránh nhịp tim chậm. Chỉ nên kết hợp thuốc chẹn beta với verapamil hoặc diltiazem trong chăm sóc thứ hai với việc theo dõi thường xuyên nhịp tim bằng ECG 24 giờ để kiểm tra nhịp tim chậm. [459] Một số thuốc chống loạn nhịp (AAD) cũng có đặc tính giới hạn tần số (ví dụ: amiodarone, sotalol), nhưng nhìn chung chúng chỉ nên được sử dụng để kiểm soát nhịp tim. Không nên dùng dronedarone để kiểm soát tần số vì nó làm tăng tỷ lệ suy tim, đột quỵ và tử vong do tim mạch ở bệnh nhân AF vĩnh viễn.[481]

Thuốc chẹn beta, đặc biệt là thuốc đối kháng thụ thể adrenoreceptor chọn lọc beta-1, thường là thuốc kiểm soát tần số tim hàng đầu chủ yếu dựa trên tác dụng cấp thời của chúng đối với tần số tim và các tác dụng có lợi đã được chứng minh ở những bệnh nhân bị HFrEF mạn tính. Tuy nhiên, lợi ích tiên lượng của thuốc chẹn beta ở những bệnh nhân HFrEF có nhịp xoang có thể không có ở những bệnh nhân bị AF.[133,482]

Verapamil và diltiazem là thuốc chẹn kênh canxi không phải dihydropyridine. Chúng kiểm soát tần số tim [461] và có hồ sơ tác dụng phụ khác nhau, khiến verapamil hoặc diltiazem hữu ích cho những người gặp tác dụng phụ từ thuốc chẹn beta.[483] Trong một RCT chéo gồm 60 bệnh nhân, verapamil và diltiazem không dẫn đến tình trạng giảm khả năng gắng sức giống như thuốc chẹn beta và có tác động có lợi lên BNP.[480]

Digoxin và digitoxin là glycosid tim ức chế adenosine triphosphatase natri-kali và tăng trương lực phó giao cảm. Trong RCT, không có mối liên quan nào giữa việc sử dụng digoxin và bất kỳ sự gia tăng nào về tỷ lệ tử vong do mọi nguyên nhân. [185,484] Liều digoxin thấp hơn có thể liên quan đến tiên lượng tốt hơn.[185] Nồng độ digoxin trong huyết thanh có thể được theo dõi để tránh độc tính, [485] đặc biệt là ở những bệnh nhân có nguy cơ cao hơn do tuổi cao hơn, rối loạn chức năng thận hoặc sử dụng thuốc có tương tác. Trong RATE-AF (RAte control Therapy Evaluation in permanent Atrial Fibrillation: Đánh giá liệu pháp kiểm soát tần số trong rung nhĩ vĩnh viễn), một thử nghiệm ở những bệnh nhân bị AF vĩnh viễn có triệu chứng, không có sự khác biệt giữa digoxin liều thấp và bisoprolol đối với kết quả chất lượng cuộc sống do bệnh nhân báo cáo sau 6 tháng. Tuy nhiên, những người được phân ngẫu nhiên dùng digoxin cho thấy ít tác dụng phụ hơn, cải thiện nhiều hơn về điểm mEHRA và NYHA và giảm BNP.[48] Hai RCT đang được tiến hành đang giải quyết vấn đề sử dụng digoxin và digitoxin ở những bệnh nhân mắc HFrEF có và không có AF (EudraCT- 2013-005326-38, NCT03783429).[486]

Do hồ sơ tác dụng phụ ngoài tim rộng, amiodarone được dành riêng làm lựa chọn cuối cùng khi nhịp tim không thể kiểm soát được ngay cả với liệu pháp kết hợp dung nạp tối đa, hoặc ở những bệnh nhân không đủ điều kiện để triệt phá nút nhĩ thất và tạo nhịp. Nhiều tác dụng phụ từ amiodarone có mối quan hệ trực tiếp với liều tích lũy, hạn chế giá trị lâu dài của amiodarone đối với việc kiểm soát tần số tim. [487]

Bảng 12 – Các thuốc cho kiểm soát tần số trong AF

Thuốca Sử dụng đường tĩnh mạch Phạm vi thường cho liều uống duy trì Chống chỉ định
Beta blockerb
Metoprlol succinate 2.5–5 mg bolus trong 2 phút; đến tổng liều tối đa 15 mg 25–100 mg hai lần ngày

 

Trong trường hợp hen phế quản, các beta blocker nên được tránh

Chống chỉ đị phối hợp trong suy tim cấp và co thắt phế quản nặng.

Metoprolol XL
(succinate) 
N/A

 

50–200 mg một lần ngày

 

Bisoprolol N/A

 

1.25–20 mg một lần ngày

 

Atenololc N/A

 

25–100 mg một lần ngày

 

Esmolol 500 µg/kg i.v. bolus qua 1 phút; tiếp sau bằng  50–300 µg / kg /phút N/A

 

Landiolol 00 µg/kg i.v. bolus qua 1 phút; tiếp theo bằng
10–40 µg/kg/phút
N/A

 

Nebivolol N/A 2.5–10 mg một lần ngày
Carvedilol N/A 3.125–50 mg hai lần ngày
Các chẹn kênh can xi non hydropyridine.
Verapamil 2.5–10 mg i.v. bolus trong 5 phút 40 mg hai lần ngày đến 480 mg (ngoại trừ thải tiết chậm) một lần ngày Chống chỉ định nều LVEF ≤40%.
Các liều tương ứng trong suy gan và suy thận
Diltiazem

 

0.25 mg/kg i.v. bolus trong 5 phút, sau đó 5–15 mg/h 60 mg ba lần ngày đến 360 mg
(thải tiết chậm) lần ngày 
Digitalis glycosides
Digoxin

 

0.5 mg i.v. bolus (0.75–1.5 mg trong  24 h trong các liều được chia ra)

 

0.0625–0.25 mg lần ngày

 

Nồng độ huyết tương cao kết hợp với các biến cố bất lợi.

 

Digitoxin

 

0.4–0.6 mg

 

0.05–0.1 mg lần ngày

 

Kiểm tra chức năng thận trước khi khởi liều digoxin và liều thích ứng ở bệnh nhân bệnh thận mạn

 

Các thuốc khác
Amiodaroned

 

300 mg truyền tĩnh mạch pha loãng trong 250 mL dextrose 5% trong

30–60 phút (tốt nhất là qua catheter tĩnh mạch trung tâm), sau đó là 900–1200 mg truyền tĩnh mạch trong 24 giờ pha loãng trong 500–1000 mL qua catheter tĩnh mạch trung tâm

200 mg một lần mỗi ngày sau khi tải

Tải: 200 mg ba lần mỗi ngày trong 4 tuần, sau đó 200 mg mỗi ngày hoặc ít hơn tùy điều kiện (giảm các loại thuốc kiểm soát tần số khác theo tần số tim)

Chống chỉ định trong trường hợp nhạy cảm với iốt.

Tác dụng phụ nghiêm trọng tiềm ẩn (bao gồm phổi, mắt, gan và tuyến giáp). Xem xét nhiều tương tác thuốc

AF: rung nhĩ; CKD: bệnh thận mạn tính; HF: suy tim; i.v: tĩnh mạch; N/A Không có, không có sẵn hoặc không được phổ biến rộng rãi. Liều tối đa đã được xác định dựa trên tóm tắt đặc tính sản phẩm của từng loại thuốc.

a Tất cả các loại thuốc kiểm soát tần số đều chống chỉ định trong hội chứng Wolff–Parkinson–White; cũng như amiodarone tiêm tĩnh mạch.

b Các thuốc chẹn beta khác có sẵn nhưng không được khuyến cáo là liệu pháp kiểm soát tần số cụ thể trong AF và do đó không được đề cập ở đây (ví dụ: propranolol và labetalol).

c Không có dữ liệu về atenolol; không nên sử dụng trong suy tim có phân suất tống máu giảm hoặc trong thai kỳ.

d Phác đồ tải có thể thay đổi; liều lượng i.v. nên được xem xét khi tính toán tổng tải

7.1.4. Triệt phá nút nhĩ thất và cấy máy tạo nhịp

Việc triệt phá nút nhĩ thất và cấy máy tạo nhịp tim (‘triệt phá và tạo nhịp tim’) có thể làm giảm và điều hòa tần số tim ở những bệnh nhân AF (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S16). Quy trình này có tỷ lệ biến chứng thấp và nguy cơ tử vong dài hạn thấp.[468,488] Máy tạo nhịp tim nên được cấy ghép vài tuần trước khi phá hủy nút nhĩ thất, với tần số tạo nhịp tim ban đầu sau khi phá hủy được đặt ở mức 70–90 nhịp/phút. [489,490] Chiến lược này không làm xấu đi chức năng thất trái, [491] và thậm chí có thể cải thiện LVEF ở những bệnh nhân được chọn.[492,493] Cơ sở bằng chứng thường gồm những bệnh nhân lớn tuổi. Đối với những bệnh nhân trẻ tuổi, việc phá hủy và tạo nhịp tim chỉ nên được cân nhắc nếu nhịp tim vẫn không được kiểm soát mặc dù đã cân nhắc các lựa chọn điều trị thuốc và không dùng thuốc khác. Việc lựa chọn liệu pháp tạo nhịp (tạo nhịp thất phải hoặc tạo nhịp hai thất) phụ thuộc vào đặc điểm của bệnh nhân, tình trạng suy tim và LVEF.[187,494]

Ở những bệnh nhân có triệu chứng nghiêm trọng với AF vĩnh viễn và ít nhất một lần nhập viện vì suy tim, nên cân nhắc triệt phá nút nhĩ thất kết hợp với CRT. Trong thử nghiệm APAF-CRT (Ablate and Pace for Atrial Fibrillation-cardiac resynchronization therapy: Triệt phá và tạo nhịp cho rung nhĩ – liệu pháp đồng bộ hóa tim) trên quần thể có phức hợp QRS hẹp, phá hủy nút nhĩ thất kết hợp với CRT vượt trội hơn thuốc kiểm soát tần số đối với các kết quả chính (tử vong do mọi nguyên nhân và tử vong hoặc nhập viện do suy tim) và các kết quả phụ (gánh nặng triệu chứng và hạn chế về thể chất).[470,471] Tạo nhịp hệ thống dẫn truyền có thể trở thành chế độ tạo nhịp thay thế có khả năng hữu ích khi triển khai chiến lược tạo nhịp và phá hủy, sau khi tính an toàn và hiệu quả đã được xác nhận trong các RCT lớn hơn.[495,496] Ở những người nhận CRT, sự hiện diện (hoặc xuất hiện) AF là một trong những lý do chính khiến tạo nhịp hai thất không tối ưu.[187] Cải thiện tạo nhịp hai thất được chỉ định và có thể đạt được bằng cách tăng cường chế độ dùng thuốc kiểm soát tần số, phá hủy nút nhĩ thất hoặc kiểm soát nhịp, tùy thuộc vào đặc điểm của bệnh nhân và AF.[187]

7.2. Các chiến lược kiểm soát nhịp ở bệnh nhân AF

7.2.1. Các nguyên tắc chung và kháng đông

Kiểm soát nhịp tim đề cập đến các liệu pháp dành riêng để phục hồi và duy trì nhịp xoang. Các phương pháp điều trị này gồm chuyển nhịp tim, AAD, triệt phá qua catheter qua da, triệt phá nội soi và kết hợp, và các phương pháp phẫu thuật mở (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S17). Kiểm soát nhịp tim không bao giờ là một chiến lược riêng lẻ; thay vào đó, nó luôn phải là một phần của phương pháp AF-CARE.

Đối với những bệnh nhân bị mất ổn định huyết động cấp tính hoặc nặng hơn được cho là do AF gây ra, nên tiến hành chuyển nhịp tim nhanh bằng điện. Đối với những bệnh nhân khác, nên cân nhắc phương pháp chờ đợi và theo dõi như một phương pháp thay thế cho chuyển nhịp tim ngay lập tức (Hình 12). Thử nghiệm Kiểm soát nhịp tim so với chuyển nhịp tim bằng điện 7 – Chuyển nhịp tim cấp thời so với chờ đợi và theo dõi (RACE 7 ACWAS) ở những bệnh nhân bị AF có triệu chứng khởi phát gần đây mà không bị ảnh hưởng huyết động cho thấy phương pháp chờ đợi và theo dõi để chuyển nhịp tim tự phát cho đến 48 giờ sau khi khởi phát các triệu chứng AF không kém hơn so với chuyển nhịp tim ngay lập tức trong 4 tuần theo dõi.[10]

Kể từ khi công bố các thử nghiệm mang tính bước ngoặt cách đây hơn 20 năm, lý do chính để cân nhắc liệu pháp kiểm soát nhịp dài hạn là giảm các triệu chứng của AF. [497–500] Các nghiên cứu cũ hơn đã chỉ ra việc thiết lập chiến lược kiểm soát nhịp sử dụng AAD không làm giảm tỷ lệ tử vong và bệnh tật khi so sánh với chiến lược chỉ kiểm soát tần số, [497–500] và có thể làm tăng tỷ lệ nhập viện. [457] Ngược lại, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra các chiến lược kiểm soát nhịp có tác động tích cực đến chất lượng cuộc sống sau khi nhịp xoang được duy trì. [501,502] Do đó, trong trường hợp không chắc chắn về sự hiện diện của các triệu chứng liên quan đến AF, thì nỗ lực khôi phục nhịp xoang là bước đầu tiên hợp lý. Ở những bệnh nhân có triệu chứng, cần cân nhắc các yếu tố của bệnh nhân ủng hộ nỗ lực kiểm soát nhịp, bao gồm nghi ngờ bệnh cơ tim nhanh, tiền sử AF ngắn, tâm nhĩ trái không giãn hoặc sở thích của bệnh nhân.

Các chiến lược kiểm soát nhịp tim đã có sự phát triển đáng kể do kinh nghiệm ngày càng tăng trong việc sử dụng thuốc chống loạn nhịp an toàn, [17] sử dụng OAC thường xuyên, cải tiến trong công nghệ triệt phá, [503–509] và xác định và quản lý các yếu tố nguy cơ và bệnh đi kèm. [39,510,511] Trong thử nghiệm ATHENA (A Placebo-Controlled, Double-Blind, Parallel Arm Trial to Assess the Efficacy of Dronedarone 400 mg twice daily for the Prevention of Cardiovascular Hospitalization or Death from Any Cause in Patients with Atrial Fibrillation/Atrial Flutter: Thử nghiệm song song, mù đôi, có đối chứng giả dược để đánh giá hiệu quả của Dronedarone 400 mg hai lần mỗi ngày để phòng ngừa nhập viện tim mạch hoặc tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào ở bệnh nhân bị rung nhĩ/rung nhĩ), dronedarone làm giảm đáng kể nguy cơ nhập viện do các biến cố tim mạch hoặc tử vong so với giả dược ở những bệnh nhân AF kịch phát hoặc dai dẳng. [512] Thử nghiệm CASTLE-AF (Catheter Ablation versus Standard Conventional Treatment in Patients With Left Ventricle Dysfunction and AF: Triệt phá qua catheter so với phương pháp điều trị thông thường chuẩn ở bệnh nhân rối loạn chức năng thất trái và AF) đã chứng minh chiến lược kiểm soát nhịp tim bằng phương pháp triệt phá qua catheter có thể cải thiện tỷ lệ tử vong và bệnh tật ở những bệnh nhân được chọn mắc HFrEF và thiết bị tim được cấy. [4] Ở giai đoạn cuối HFrEF, thử nghiệm CASTLE-HTx (Catheter Ablation for Atrial Fibrillation in Patients With End-Stage Heart Failure and Eligibility for Heart Transplantation: Triệt phá qua catheter để điều trị rung nhĩ ở bệnh nhân suy tim giai đoạn cuối và đủ điều kiện ghép tim) đã phát hiện ra, tại một trung tâm duy nhất, triệt phá qua catheter kết hợp với điều trị nội theo hướng dẫn đã làm giảm đáng kể tỷ lệ tử vong do bất kỳ nguyên nhân nào, cấy thiết bị hỗ trợ thất trái hoặc ghép tim khẩn cấp so với điều trị y tế. [513] Tuy nhiên, cùng lúc đó, thử nghiệm CABANA (Catheter Ablation versus Anti-arrhythmic Drug Therapy for Atrial Fibrillation: Triệt phá qua catheter so với liệu pháp thuốc chống loạn nhịp cho rung nhĩ) không thể chứng minh được sự khác biệt có ý nghĩa về tử suất và bệnh suất giữa triệt phá qua catheter và thuốc kiểm soát nhịp chuẩn và/hoặc các thuốc kiểm soát tần số ở những bệnh nhân AF có triệu chứng trên 64 tuổi hoặc dưới 65 tuổi có các yếu tố nguy cơ đột quỵ [3]. EAST-AFNET 4 (Early treatment of Atrial fibrillation for Stroke prevention Trial: Thử nghiệm điều trị sớm rung nhĩ để phòng ngừa đột quỵ) báo cáo việc thực hiện chiến lược kiểm soát nhịp trong vòng 1 năm so với chăm sóc thông thường làm giảm đáng kể nguy cơ tử vong do tim mạch, đột quỵ hoặc nhập viện do suy tim hoặc hội chứng mạch vành cấp ở những bệnh nhân trên 75 tuổi hoặc mắc các bệnh lý tim mạch. [17] Lưu ý, kiểm soát nhịp chủ yếu được thực hiện bằng thuốc chống loạn nhịp (80% bệnh nhân trong nhóm can thiệp). Chăm sóc thông thường bao gồm liệu pháp kiểm soát tần số; chỉ khi xảy ra các triệu chứng liên quan đến AF không kiểm soát được thì mới xem xét kiểm soát nhịp. Tất cả bệnh nhân trong thử nghiệm EAST-AFNET 4 đều có các yếu tố nguy cơ tim mạch nhưng đang ở giai đoạn đầu của AF, với hơn 50% có nhịp xoang và 30% không có triệu chứng khi bắt đầu nghiên cứu.

Dựa trên tất cả các nghiên cứu này, nhóm đặc nhiệm này kết luận việc triển khai chiến lược kiểm soát nhịp tim có thể được thiết lập một cách an toàn và cải thiện các triệu chứng liên quan đến AF. Ngoài việc kiểm soát các triệu chứng, việc duy trì nhịp xoang cũng nên được theo đuổi để giảm bệnh suất (morbidity) và tử suất (mortality) ở một số nhóm bệnh nhân được chọn.[4,17,502,513,514]

Bất kỳ thủ thuật kiểm soát nhịp tim nào cũng có nguy cơ cố hữu gây ra huyết khối tắc mạch. Bệnh nhân trải qua quá trình chuyển nhịp tim cần ít nhất 3 tuần dùng thuốc chống đông điều trị (tuân thủ DOAC hoặc INR >2 nếu VKA) trước khi thực hiện thủ thuật chuyển nhịp bằng điện hoặc thuốc. Trong các trường hợp cấp thời hoặc khi cần chuyển nhịp tim sớm, có thể thực hiện siêu âm tim qua thực quản (TOE) để loại trừ huyết khối tim trước khi chuyển nhịp tim. Các phương pháp tiếp cận này đã được thử nghiệm trong nhiều RCT. [319–321] Trong trường hợp phát hiện huyết khối, nên bắt đầu dùng thuốc chống đông điều trị trong tối thiểu 4 tuần, sau đó lặp lại TOE để đảm bảo huyết khối được giải quyết. Khi thời gian AF xác định dưới 48 giờ, thường cân nhắc chuyển nhịp mà không cần dùng OAC hoặc TOE trước thủ thuật để loại trừ huyết khối. Tuy nhiên, thời điểm khởi phát ‘xác định’ của AF thường không được biết và dữ liệu quan sát cho thấy nguy cơ đột quỵ/huyết khối tắc mạch thấp nhất trong khoảng thời gian ngắn hơn nhiều. [515–519] Nhóm đặc nhiệm này đã đạt được sự đồng thuận an toàn phải được đặt lên hàng đầu. Không khuyến cáo chuyển nhịp nếu thời gian AF dài hơn 24 giờ, trừ khi bệnh nhân đã được dùng thuốc chống đông điều trị ít nhất 3 tuần hoặc thực hiện TOE để loại trừ huyết khối trong tim. Hầu hết bệnh nhân nên tiếp tục OAC trong ít nhất 4 tuần sau khi chuyển nhịp. Chỉ những bệnh nhân không có yếu tố nguy cơ huyết khối tắc mạch và phục hồi nhịp xoang trong vòng 24 giờ sau khi AF khởi phát khi đó OAC sau chuyển nhịp mới là tùy chọn. Khi có bất kỳ yếu tố nguy cơ huyết khối tắc mạch nào, nên bắt đầu OAC dài hạn bất kể kết quả nhịp như thế nào.

Quyết định tiếp tục OAC sau chuyển nhịp OAC ngắn hạn (4 tuần) cho tất cả bệnh nhân, ngay cả khi CHA2DS2-VA = 0 (tùy chọn nếu AF khởi phát chắc chắn <24 giờ và nguy cơ huyết khối tắc mạch thấp) OAC dài hạn cho tất cả bệnh nhân theo đánh giá nguy cơ huyết khối tắc mạch.

Hình 12 Các phương pháp tiếp cận để chuyển nhịp ở bệnh nhân AF.

AF: rung nhĩ; CHA2DS2-VA: C: suy tim sung huyết, H: tăng huyết áp, A: tuổi ≥75 (2 điểm), D: đái tháo đường, S: đột quỵ/thiếu máu cục bộ thoáng qua/huyết khối động mạch trước đó (2 điểm), V: bệnh mạch máu, A: tuổi 65–74; h: giờ; LMWH, heparin trọng lượng phân tử thấp; DOAC, thuốc chống đông đường uống trực tiếp; OAC, thuốc chống đông đường uống; TOE: siêu âm tim qua thực quản; UFH: heparin không phân đoạn; VKA: kháng vitamin K. ĐT: điều trị. Sơ đồ quy trình để ra quyết định chuyển nhịp AF tùy thuộc vào biểu hiện lâm sàng, thời điểm khởi phát AF, lượng thuốc chống đông đường uống và các yếu tố nguy cơ đột quỵ. a Xem Mục 6.

 Bảng khuyến cáo 15 – Khuyến cáo cho các khái niệm chung trong kiểm soát nhịp (xem thêm Bảng bằng chứng 15)

Các khuyến cáo Classa Levelbb
Chuyển nhịp bằng điện được khuyến cáo ở những bệnh nhân AF có tình trạng không ổn định huyết động cấp tính hoặc xấu đi để cải thiện kết quả tức thời cho bệnh nhân.[520]  

I

 

C

Thuốc chống đông đường uống trực tiếp được khuyến cáo ưu tiên hơn VKA ở những bệnh nhân đủ điều kiện bị AF đang trải qua chuyển nhịp để giảm nguy cơ huyết khối tắc mạch. [293,319–321,521]  

I

 

A

Thuốc chống đông đường uống điều trị trong ít nhất 3 tuần (tuân thủ DOAC hoặc INR ≥2,0 đối với VKA) được khuyến cáo trước khi chuyển nhịp theo lịch trình đối với AF và cuồng nhĩ để ngăn ngừa huyết khối tắc mạch liên quan đến thủ thuật. [319–321]  

I

 

B

Siêu âm qua thực quản được khuyến cáo nếu không cung cấp thuốc chống đông đường uống điều trị trong 3 tuần, để loại trừ huyết khối tim để cho phép chuyển nhịp sớm. [319–321,522]  

I

 

B

Thuốc chống đông đường uống được khuyến cáo tiếp tục trong ít nhất 4 tuần ở tất cả bệnh nhân sau khi chuyển nhịp và dùng lâu dài ở những bệnh nhân có yếu tố nguy cơ huyết khối tắc mạch bất kể có đạt được nhịp xoang hay không, để ngăn ngừa huyết khối tắc mạch. [239,319,320,523,524]  

I

 

B

Nên cân nhắc chuyển nhịp AF (bằng điện hoặc thuốc) ở những bệnh nhân có triệu chứng AF dai dẳng như một phần của phương pháp kiểm soát nhịp. [52,525,526]  

IIa

 

B

Nên cân nhắc phương pháp chờ đợi để chuyển nhịp tự nhiên sang nhịp xoang trong vòng 48 giờ sau khi AF khởi phát ở những bệnh nhân không bị tổn thương huyết động như một phương pháp thay thế cho chuyển nhịp ngay lập tức. [10,525]  

IIa

 

B

Nên cân nhắc triển khai chiến lược kiểm soát nhịp trong vòng 12 tháng sau khi chẩn đoán ở những bệnh nhân được chọn bị AF có nguy cơ bị các biến cố huyết khối tắc mạch để giảm nguy cơ tử vong do tim mạch hoặc nhập viện. [17,527]  

IIa

 

B

Cần cân nhắc bắt đầu dùng thuốc chống đông trị liệu càng sớm càng tốt trong trường hợp chuyển nhịp không theo lịch trình đối với AF hoặc cuồng nhĩ để ngăn ngừa huyết khối tắc mạch liên quan đến thủ thuật. [319 321,528]  

IIa

 

B

Cần cân nhắc thực hiện lại siêu âm qua thực quản trước khi chuyển nhịp nếu đã xác định được huyết khối trên hình ảnh ban đầu để đảm bảo huyết khối được giải quyết và ngăn ngừa huyết khối tắc mạch quanh thủ thuật. [529]  

IIa

 

C

Không khuyến cáo chuyển nhịp sớm nếu không có thuốc chống đông thích hợp hoặc siêu âm qua thực quản nếu thời gian AF kéo dài hơn 24 giờ hoặc có thể chờ chuyển nhịp tự nhiên. [522]  

III

 

C

AF: rung nhĩ; DOAC: thuốc chống đông đường uống trực tiếp; INR: tỷ lệ chuẩn hóa quốc tế của thời gian prothrombin; VKA: thuốc kháng vitamin K.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

7.2.2. Chuyển nhịp bằng điện

Có thể áp dụng phương pháp chuyển nhịp bằng điện (ECV) một cách an toàn trong trường hợp cấp cứu và theo yêu cầu (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S18) với thuốc an thần tiêm tĩnh mạch midazolam, propofol hoặc etomidate. [530] Chăm sóc có kế hoạch và tích hợp cho bệnh nhân AF khởi phát cấp tính tại khoa cấp cứu có liên quan đến kết quả tốt hơn mà không ảnh hưởng đến tính an toàn. [531] Tỷ lệ các biến cố lâm sàng có hại lớn sau khi chuyển nhịp thấp hơn đáng kể với DOAC so với warfarin. [293]

Nên theo dõi huyết áp và đo oxy thường xuyên. Nên tiêm tĩnh mạch atropine hoặc isoproterenol, hoặc tạo nhịp tạm thời qua da, trong trường hợp nhịp tim chậm sau chuyển nhịp. Máy khử rung hai pha là tiêu chuẩn vì hiệu quả vượt trội so với máy khử rung một pha. [532–534] Không có vị trí tối ưu duy nhất cho điện cực, với phân tích tổng hợp của 10 RCT cho thấy không có sự khác biệt trong việc phục hồi nhịp xoang khi so sánh vị trí điện cực trước-sau với trước-bên.[535] Áp dụng lực nén chủ động vào miếng đệm khử rung tim có liên quan đến ngưỡng khử rung tim thấp hơn, tổng năng lượng cung cấp thấp hơn, ít sốc hơn để ECV thành công và tỷ lệ thành công cao hơn. [536] Một thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy sốc năng lượng cố định tối đa hiệu quả hơn so với năng lượng leo thang thấp đối với ECV. [537]

Việc sử dụng vernakalant ngay lập tức, [538] hoặc điều trị trước trong 3–4 ngày bằng flecainide, [539,540] ibutilide, [541,542] propafenone, [543] hoặc amiodarone [544–546] cải thiện tỷ lệ ECV thành công và có thể tạo điều kiện duy trì nhịp xoang lâu dài bằng cách ngăn ngừa AF tái phát sớm.[547] Một phân tích tổng hợp đã chứng minh điều trị trước bằng amiodarone (200–800 mg/ngày trong 1–6 tuần trước khi chuyển nhịp) và điều trị sau (200 mg/ngày) đã cải thiện đáng kể việc phục hồi và duy trì nhịp xoang sau khi ECV của AF. [546]

Trong một số trường hợp AF dai dẳng, không có mối quan hệ rõ ràng giữa loạn nhịp và các triệu chứng. Trong những trường hợp này, việc phục hồi nhịp xoang bằng ECV có thể giúp xác nhận tác động của loạn nhịp lên các triệu chứng và/hoặc lên các triệu chứng và dấu hiệu suy tim. Một cách tiếp cận như vậy có thể hữu ích để xác định những cá nhân thực sự không có triệu chứng, để đánh giá tác động của AF lên chức năng LV ở những bệnh nhân HFrEF và để phân biệt các triệu chứng liên quan đến AF với các triệu chứng suy tim.

Bảng khuyến cáo 16 — Khuyến cáo về phương pháp chuyển nhịp AF bằng điện (xem thêm Bằng chứng Bảng 16)

Khuyến cáo Classa Levelb
Chuyển nhịp bằng điện như là một công cụ chẩn đoán nên được xem xét ở các bệnh nhân có AF dai dẳng khi không chắc chắn về giá trị của việc phục hồi nhịp xoang đối với các triệu chứng hoặc để đánh giá sự cải thiện chức năng thất trái. [548]  

IIa

 

C

AF: rung nhĩ.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

7.2.3. Chuyển nhịp bằng thuốc

Chuyển nhịp bằng thuốc về nhịp xoang là một thủ thuật lựa chọn ở những bệnh nhân ổn định về huyết động. Nó kém hiệu quả hơn chuyển nhịp bằng điện để phục hồi nhịp xoang, [549] với thời điểm chuyển nhịp là yếu tố quyết định quan trọng đến thành công.[550] Có rất ít dữ liệu hiện tại về hiệu quả thực sự của chuyển nhịp bằng thuốc, có thể bị ảnh hưởng do việc phục hồi nhịp xoang tự nhiên ở 76%–83% bệnh nhân bị AF mới khởi phát (10%–18% trong vòng 3 giờ đầu, 55%–66% trong vòng 24 giờ và 69% trong vòng 48 giờ). [10,119,445,551–555]

Việc lựa chọn một loại thuốc cụ thể dựa trên loại và mức độ nghiêm trọng của bệnh tim đi kèm (Bảng 13). Một phân tích tổng hợp đã chứng minh rằng vernakalant tiêm tĩnh mạch và flecainide có tỷ lệ chuyển đổi cao nhất trong vòng 4 giờ, có thể cho phép xuất viện khỏi khoa cấp cứu và giảm nhập viện. Các dạng thuốc chống loạn nhịp nhóm IC dạng tiêm tĩnh mạch và uống (flecainide hơn propafenone) có tỷ lệ chuyển đổi cao hơn trong vòng 12 giờ, trong khi hiệu quả của amiodarone được thể hiện chậm hơn (trong vòng 24 giờ).[556]

Chuyển nhịp bằng thuốc không yêu cầu nhịn ăn, an thần hoặc gây mê. Thuốc chống đông nên được bắt đầu hoặc tiếp tục theo đánh giá (lại) chính thức về nguy cơ huyết khối tắc mạch. [554,557–559]

Một liều flecainide hoặc propafenone tự uống duy nhất (viên thuốc trong túi: pill-in-the-pocket) có hiệu quả ở những bệnh nhân có triệu chứng bị AF kịch phát không thường xuyên và mới khởi phát (recent-onset). Việc triển khai an toàn chiến lược này đòi hỏi phải sàng lọc bệnh nhân để loại trừ rối loạn chức năng nút xoang, khiếm khuyết dẫn truyền nhĩ thất hoặc hội chứng Brugada, cũng như xác nhận hiệu quả và độ an toàn của thuốc tại bệnh viện trước đó. [560] Thuốc chặn nút nhĩ thất nên được sử dụng cho những bệnh nhân được điều trị bằng AAD IC để tránh dẫn truyền 1:1 nếu nhịp chuyển thành AFL (cuồng nhĩ).[561]

Bảng khuyến cáo 17 — Khuyến cáo về chuyển nhịp  AF bằng thuốc (xem thêm Bảng bằng chứng 17)

Khuyến cáo Classa Levelb
Flecainide hoặc propafenone tiêm tĩnh mạch được khuyến cáo khi cần chuyển nhịp bằng thuốc cho AF mới khởi phát, loại trừ những bệnh nhân bị phì đại thất trái nặng, HFrEF hoặc bệnh động mạch vành. [562–566]  

I

 

A

Vernakalant tiêm tĩnh mạch được khuyến cáo khi cần chuyển nhịp bằng thuốc cho AF mới khởi phát, loại trừ những bệnh nhân bị ACS gần đây, HFrEF hoặc hẹp van động mạch chủ nặng. [562–568]  

I

 

A

Amiodarone tĩnh mạch được khuyến cáo khi cần chuyển nhịp AF ở những bệnh nhân bị phì đại thất trái nặng, HFrEF hoặc bệnh động mạch vành, chấp nhận rằng có thể có sự chậm trễ trong quá trình chuyển nhịp. [473,569,570]  

I

 

A

Một liều flecainide hoặc propafenone uống một lần (thuốc viên trong túi) nên được xem xét để chuyển nhịp tim do bệnh nhân chỉ định ở những bệnh nhân được chọn có AF kịch phát không thường xuyên, sau khi đánh giá hiệu quả và độ an toàn và loại trừ những bệnh nhân bị phì đại thất trái nặng, HFrEF hoặc bệnh động mạch vành. [560,571–573]  

 

IIa

 

 

B

Không khuyến cáo chuyển nhịp tim bằng thuốc cho những bệnh nhân bị rối loạn chức năng nút xoang, rối loạn dẫn truyền nhĩ thất hoặc QTc kéo dài (>500 ms), trừ khi đã cân nhắc đến nguy cơ thúc đẩy loạn nhịp và nhịp chậm.  

III

 

C

ACS: hội chứng vành cấp; AF: rung nhĩ; HFrEF: suy tim với phân suất tống máu giảm.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

Bảng 13 Các thuốc chống loạn nhịp để khôi phục về nhịp xoang

Thuốc

 

Đường dùng

 

Liều dùng khởi đầu

 

Liều dùng tiếp theo [phương pháp tiếp cận dài hạn] Tỷ lệ thành công cấp thời và thời gian đạt nhịp xoang Chống chỉ định và biện pháp phòng ngừa
Flecainide

 

Uống 200–300 mg [ 50-150 mg 2 lần ngày dài hạn]

 

50%–60% trong 3 h
và 75%–85% trong
6–8 h (3–8 h)
• Không nên sử dụng cho bệnh nhân mắc bệnh động mạch vành hoặc cấu trúc nặng, hội chứng Brugada hoặc suy thận nặng (CrCl <35 mL/phút/1,73 m2).

• Nên có tài liệu trước về tính an toàn và hiệu quả trong điều kiện nội trú trước khi sử dụng viên thuốc trong túi (pill-in-the-pocket).

• Nên dùng thuốc chẹn AVN để tránh dẫn truyền 1:1 nếu chuyển sang AFL.

• Nên ngừng truyền thuốc trong trường hợp QRS rộng >25% hoặc xảy ra block nhánh bó.

• Cần thận trọng ở bệnh nhân mắc bệnh nút xoang và rối loạn chức năng AVN.

• KHÔNG sử dụng để chuyển cuồng nhĩ

Truyền 1–2 mg/kg qua
10 min
52%–95%
(lên đến 6 h)

 

ACS: hội chứng mạch vành cấp; AF: rung nhĩ; AFL: cuồng nhĩ; AVN, nút nhĩ thất; CrCl: độ thanh thải creatinin; ECG: điện tâm đồ; HF: suy tim; LVEF: phân suất tống máu thất trái; LVH: phì đại thất trái; NYHA: Hội Tim mạch New York; QT: khoảng QT; SBP: huyết áp tâm thu. Liều dùng dài hạn để duy trì nhịp xoang được chỉ định trong [dấu ngoặc vuông]. Liều dùng đường uống dài hạn đối với dronedarone là 400 mg hai lần mỗi ngày và đối với sotalol là 80-160 mg hai lần mỗi ngày.

7.2.4. Các thuốc chống loạn nhịp

Mục đích của việc kiểm soát nhịp tim dài hạn là duy trì nhịp xoang, cải thiện chất lượng cuộc sống, làm chậm sự tiến triển của AF và có khả năng giảm tỷ lệ mắc bệnh liên quan đến các đợt AF (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S19). [17,445,574,575] Thuốc chống loạn nhịp không loại bỏ được tình trạng tái phát AF, nhưng ở những bệnh nhân bị AF kịch phát hoặc dai dẳng, tình trạng tái phát không tương đương với thất bại điều trị nếu các đợt ít thường xuyên hơn, ngắn hơn hoặc ít triệu chứng hơn. Thuốc chống loạn nhịp cũng có vai trò kiểm soát nhịp tim dài hạn ở những bệnh nhân AF được coi là không đủ điều kiện hoặc không muốn trải qua quá trình triệt phá qua catheter hoặc phẫu thuật.

Trước khi bắt đầu điều trị AAD, cần xác định các tác nhân có thể đảo ngược và điều trị các bệnh đi kèm tiềm ẩn để giảm nền gây loạn nhịp, ngăn ngừa tiến triển của AF và tạo điều kiện duy trì nhịp xoang.[39,128] Thử nghiệm RACE 3, gồm những bệnh nhân bị AF dai dẳng sớm và suy tim nhẹ đến trung bình (chủ yếu là HFpEF và HFmrEF), cho thấy liệu pháp nhắm mục tiêu vào các tình trạng tiềm ẩn đã cải thiện việc duy trì nhịp xoang sau 1 năm (75% so với 63% so với chăm sóc tiêu chuẩn).[39] Việc lựa chọn AAD để kiểm soát nhịp tim lâu dài đòi hỏi phải đánh giá cẩn thận, có tính đến loại AF, các thông số của bệnh nhân và hồ sơ an toàn. [445] Nó cũng bao gồm việc ra quyết định chung, cân bằng tỷ lệ lợi ích/nguy cơ của AAD khi so sánh với các chiến lược khác. Đáng chú ý, bằng chứng gần đây đã chỉ ra việc thiết lập AAD cẩn thận có thể được thực hiện một cách an toàn. [17]

Hiệu quả lâu dài của AAD bị hạn chế. Trong phân tích tổng hợp 59 RCT, AAD làm giảm tái phát AF từ 20%–50% so với không điều trị, giả dược hoặc thuốc kiểm soát tần số. [576,577] Khi một AAD không làm giảm tái phát AF, có thể đạt được đáp ứng lâm sàng chấp nhận được bằng một loại thuốc khác, đặc biệt nếu từ một nhóm khác. [578] Không khuyến cáo kết hợp các AAD. Dữ liệu có sẵn cho thấy AAD không tạo ra tác dụng đáng kể đối với tỷ lệ tử vong hoặc các biến chứng tim mạch khác ngoại trừ các tín hiệu tử vong tăng đối với sotalol [574,579,580] và amiodarone. [581] Ngược lại, việc sử dụng AAD trong chiến lược kiểm soát nhịp có thể liên quan đến việc giảm tỷ lệ mắc bệnh và tử vong ở những bệnh nhân được chọn. [582]

Tất cả các AAD đều có thể gây ra các tác dụng phụ nghiêm trọng về tim (loạn nhịp tim, giảm co bóp cơ tim, hạ huyết áp) và ngoài tim (độc tính đối với cơ quan, chủ yếu là amiodarone). Tính an toàn của thuốc, thay vì hiệu quả, sẽ quyết định lựa chọn thuốc. Nguy cơ loạn nhịp tim tăng ở những bệnh nhân mắc bệnh tim cấu trúc. Liều lượng đề xuất cho AAD uống dài hạn được trình bày trong Bảng 13. [577,583,584]

Bảng khuyến cáo 18 — Khuyến cáo về thuốc chống loạn nhịp để duy trì nhịp xoang dài hạn (xem thêm Bảng bằng chứng 18)

Khuyến cáo Classa Levelb
Amiodarone được khuyến cáo ở những bệnh nhân AF và HFrEF cần điều trị bằng thuốc chống loạn nhịp tim dài hạn để ngăn ngừa AF tái phát và tiến triển, đồng thời cân nhắc và theo dõi cẩn thận độc tính ngoài tim. [577,585–587]  

I

 

A

Dronedarone được khuyến cáo ở những bệnh nhân AF cần kiểm soát nhịp tim dài hạn, gồm những bệnh nhân bị HFmrEF, HFpEF, bệnh tim thiếu máu cục bộ hoặc bệnh van tim để ngăn ngừa AF tái phát và tiến triển. [512,577,588,589]  

I

 

A

Flecainide hoặc propafenone được khuyến cáo ở những bệnh nhân AF cần kiểm soát nhịp tim dài hạn để ngăn ngừa AF tái phát và tiến triển, ngoại trừ những bệnh nhân bị suy giảm chức năng tâm thu thất trái, phì đại thất trái nặng hoặc bệnh động mạch vành. [526,577,585,590]  

I

 

A

Cần cân nhắc sử dụng đồng thời thuốc chẹn beta, diltiazem hoặc verapamil ở những bệnh nhân AF được điều trị bằng flecainide hoặc propafenone để ngăn ngừa dẫn truyền 1:1 nếu nhịp tim của họ chuyển thành cuồng nhĩ.  

IIa

 

C

Sotalol có thể được cân nhắc ở những bệnh nhân AF cần kiểm soát nhịp tim lâu dài với LVEF bình thường hoặc bệnh động mạch vành để ngăn ngừa AF tái phát và tiến triển, nhưng cần theo dõi chặt chẽ khoảng QT, nồng độ kali huyết thanh, chức năng thận và các yếu tố nguy cơ thúc đẩy loạn nhịp khác. [585,587]  

IIb

 

A

Không khuyến cáo dùng liệu pháp thuốc chống loạn nhịp ở những bệnh nhân bị rối loạn dẫn truyền tiến triển trừ khi được cung cấp máy tạo nhịp chống nhịp chậm.  

III

 

C

AF: rung nhĩ; HFmrEF: suy tim với phân suất tống máu giảm nhẹ; HFpEF: suy tim với phân suất tống máu bảo tồn; HFrEF: suy tim với phân suất tống máu giảm; LVEF: phân suất tống máu thất trái.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

7.2.5. Triệt phá qua catheter

Triệt phá qua catheter ngăn ngừa AF tái phát, giảm gánh nặng AF và cải thiện chất lượng cuộc sống ở AF kịch phát hoặc dai dẳng có triệu chứng khi bệnh nhân không dung nạp hoặc không đáp ứng với AAD. [503–509] Nhiều RCT đã cung cấp bằng chứng ủng hộ việc triệt phá qua catheter là phương pháp tiếp cận hàng đầu để kiểm soát nhịp ở những bệnh nhân AF kịch phát, với nguy cơ biến cố bất lợi tương tự so với điều trị AAD khởi đầu (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S20). [15,16,591–594] Ngược lại, không rõ liệu triệt phá hàng đầu có vượt trội hơn liệu pháp dùng thuốc ở AF dai dẳng hay không. Triệt phá qua catheter cũng có thể có vai trò ở những bệnh nhân có triệu chứng do các khoảng ngưng kéo dài khi chấm dứt AF, trong đó dữ liệu không ngẫu nhiên cho thấy các triệu chứng được cải thiện và tránh cấy máy tạo nhịp tim.[595–598] Cô lập tĩnh mạch phổi (PVI) vẫn là nền tảng của triệt phá qua catheter AF, [503, 508, 593, 599] nhưng chiến lược triệt phá tối ưu vẫn chưa được làm rõ ở nhóm bệnh nhân AF không kịch phát.[600] Các công nghệ mới đang nổi lên, chẳng hạn như triệt phá trường xung (pulsed field ablation), trong đó các xung điện có biên độ cao được sử dụng để phá hủy cơ tim bằng phương pháp điện di với độ đặc hiệu mô cao (high tissue specificity). Trong một RCT mù đơn trên 607 bệnh nhân, triệt phá trường xung không kém hơn về hiệu quả và độ an toàn so với triệt phá bằng tần số radio thông thường hoặc triệt phá bằng nhiệt lạnh. [601] Về thời điểm triệt phá, một RCT nhỏ đã phát hiện ra việc trì hoãn triệt phá qua catheter ở những bệnh nhân bị AF kịch phát hoặc dai dẳng trong 12 tháng (trong khi đang điều trị y tế tối ưu) không ảnh hưởng đến sự sống còn do rối loạn nhịp tim so với triệt phá trong vòng 1 tháng.[602]

Giống như bất kỳ loại kiểm soát nhịp nào, nhiều bệnh nhân trong thực hành lâm sàng sẽ không phù hợp với phương pháp triệt phá qua catheter do các yếu tố làm giảm khả năng đáp ứng tích cực, chẳng hạn như giãn nhĩ trái. Bằng chứng xác đáng hỗ trợ lợi ích tiên lượng của phương pháp triệt phá qua catheter là cần thiết trước khi có thể cân nhắc phương pháp điều trị xâm lấn này cho những bệnh nhân thực sự không có triệu chứng. Như đã lưu ý trước đó, thử nghiệm CABANA không xác nhận lợi ích của việc triệt phá qua catheter so với liệu pháp điều trị nội khoa, mặc dù tỷ lệ chéo cao và tỷ lệ biến cố thấp có thể làm giảm hiệu quả điều trị. [3] Do đó, chỉ những bệnh nhân không có triệu chứng được lựa chọn kỹ lưỡng mới có thể là ứng cử viên cho việc triệt phá qua catheter và chỉ sau khi thảo luận chi tiết về các rủi ro liên quan và lợi ích tiềm năng của việc trì hoãn tiến triển AF. [4,603] Các thử nghiệm ngẫu nhiên đã chỉ ra việc triệt phá qua catheter AF ở những bệnh nhân HFrEF làm giảm đáng kể tình trạng tái phát loạn nhịp và tăng phân suất tống máu, đồng thời cải thiện kết quả lâm sàng và tỷ lệ tử vong cũng được quan sát thấy ở những bệnh nhân được chọn lọc.[4,513,514,604–612] Một số đặc điểm, bao nhưng không giới hạn ở loại AF, giãn nhĩ trái và sự hiện diện của xơ nhĩ và/hoặc thất, có thể tinh chỉnh việc lựa chọn bệnh nhân để tối đa hóa lợi ích về kết quả từ việc triệt phá qua catheter AF ở những bệnh nhân HFrEF. [604,608,613–617] Giá trị tiên lượng của việc triệt phá qua catheter ở những bệnh nhân HFpEF chưa được xác định rõ ràng so với HFrEF. [617–626]

Các sổ đăng ký và thử nghiệm gần đây báo cáo tỷ lệ khác nhau của các biến cố bất lợi nghiêm trọng quanh thủ thuật liên quan đến triệt phá qua catheter (2,9%–7,2%) với tỷ lệ tử vong trong 30 ngày rất thấp (<0,1%). Kinh nghiệm của người vận hành và khối lượng thủ thuật tại trung tâm triệt phá là rất quan trọng, vì chúng liên quan đến tỷ lệ biến chứng và tỷ lệ tử vong trong 30 ngày. [627–631]

Theo dõi nhịp không liên tục thường được sử dụng để phát hiện tái phát AF sau khi triệt phá qua catheter. Các phát triển công nghệ gần đây như chụp quang phổ kế bằng đồng hồ thông minh hoặc điện thoại thông minh và miếng dán có thể mang theo được có thể có vai trò mới nổi trong việc theo dõi sau triệt phá. [632,633] Ngoài ra, máy ghi vòng lặp có thể cấy đã được sử dụng để định lượng gánh nặng AF trước và sau khi triệt phá như một tiêu chí bổ sung ngoài việc có liên quan đến loại bỏ AF. [634] Việc quản lý tái phát loạn nhịp sau triệt phá là một quá trình ra quyết định được chia sẻ và có thông tin, được thúc đẩy bằng các lựa chọn có sẵn để kiểm soát triệu chứng. Trong bối cảnh triệt phá sau AF, có dữ liệu hỗ trợ vai trò của việc tiếp tục hoặc tái khởi động AAD, ngay cả đối với các loại thuốc trước đây không hiệu quả. [635] Điều trị AAD ngắn hạn (2–3 tháng) sau khi triệt phá làm giảm tái phát AF sớm, [554,635–639] nhưng không ảnh hưởng đến tái phát muộn [636,637,640–64] Kết quả lâm sàng 2 hoặc 1 năm. [642] Nên cung cấp PVI lặp lại cho những bệnh nhân tái phát AF nếu cải thiện triệu chứng sau lần triệt phá đầu tiên, với quyết định chung và mục tiêu điều trị rõ ràng. [643–645]

Bảng khuyến cáo 19 — Khuyến cáo về việc triệt phá AF qua catheter (xem thêm Bảng bằng chứng 19)

Khuyến cáo Classa Levelb
Quyết định chung
Quyết định chung được khuyến cáo khi cân nhắc triệt phá qua catheter cho AF, có tính đến các nguy cơ về thủ thuật, lợi ích có thể có và các yếu tố nguy cơ tái phát AF. [128,210,503,646]  

I

 

C

Bệnh nhân AF kháng hoặc không dung nạp với liệu pháp thuốc chống loạn nhịp
Triệt phá qua catheter được khuyến nghị cho những bệnh nhân AF kịch phát hoặc dai dẳng kháng hoặc không dung nạp với liệu pháp thuốc chống loạn nhịp để giảm các triệu chứng, tái phát và tiến triển của AF. [3,15,503,505,506,508]  

I

 

A

Liệu pháp kiểm soát nhịp đầu tay
Triệt phá qua catheter được khuyến cáo là lựa chọn đầu tay trong chiến lược kiểm soát nhịp ra quyết định chung ở những bệnh nhân AF kịch phát, để giảm các triệu chứng, tái phát và tiến triển của AF. [16,591–594]  

I

 

A

Cắt đốt bằng ống thông có thể được coi là lựa chọn đầu tay trong chiến lược kiểm soát nhịp ra quyết định chung ở những bệnh nhân được chọn bị AF dai dẳng để giảm các triệu chứng, tái phát và tiến triển của AF.  

IIb

 

C

Bệnh nhân suy tim
Nên triệt phá AF qua catheter ở những bệnh nhân AF và HFrEF có khả năng cao mắc bệnh cơ tim do nhịp tim nhanh để đảo ngược tình trạng rối loạn chức năng thất trái. [604,611]  

I

 

B

Nên cân nhắc triệt phá AF qua catheter ở những bệnh nhân AF được chọn có HFrEF để giảm nhập viện do HF và kéo dài tuổi thọ. [4, 513, 514, 604, 610,612]  

IIa

 

B

Bệnh nút xoang/hội chứng nhịp tim nhanh–nhịp tim chậm
Nên cân nhắc triệt phá AF qua catheter ở những bệnh nhân có nhịp tim chậm liên quan đến AF hoặc ngừng xoang khi chấm dứt AF để cải thiện các triệu chứng và tránh cấy máy tạo nhịp tim. [595–598]  

IIa

 

C

Tái phát sau khi triệt phá qua catheter
Nên cân nhắc triệt phá AF qua catheter lặp lại ở những bệnh nhân AF tái phát sau khi triệt phá qua catheter ban đầu, với điều kiện các triệu chứng của bệnh nhân được cải thiện sau PVI ban đầu hoặc sau PVI ban đầu không thành công, để giảm các triệu chứng, tái phát và tiến triển của AF. [643–645]  

IIa

 

B

AF: rung nhĩ; HF: suy tim; HFrEF: suy tim có phân suất tống máu giảm; PVI: cô lập tĩnh mạch phổi.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

7.2.6. Chống đông máu ở bệnh nhân đang trải qua phẫu thuật triệt phá qua catheter

Sự hiện diện của huyết khối nhĩ trái là chống chỉ định đối với việc triệt phá AF qua catheter do nguy cơ huyết khối bị bong ra dẫn đến đột quỵ do thiếu máu cục bộ. Bệnh nhân được lên kế hoạch triệt phá AF qua catheter với nguy cơ huyết khối tắc mạch tăng cao nên dùng OAC trong ít nhất 3 tuần trước khi thực hiện thủ thuật.[554,647]

Có nhiều phương pháp trong thực hành để quan sát huyết khối trong nhĩ trước khi triệt phá qua catheter, gồm TOE (siêu âm qua thực quản), siêu âm tim trong tim hoặc chụp cắt lớp vi tính (CT) tim pha muộn. [554,648] Tỷ lệ huyết khối nhĩ trái là 1,3% và 2,7% trong hai phân tích tổng hợp các nghiên cứu quan sát ở những bệnh nhân được lên kế hoạch triệt phá AF qua catheter khi dùng OAC đầy đủ. [649,650] Tỷ lệ huyết khối nhĩ trái cao hơn ở những bệnh nhân có điểm nguy cơ đột quỵ cao và ở những bệnh nhân AF không kịch phát so với AF kịch phát. [650] Ngoài ra, một số nhóm bệnh nhân AF có nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ và huyết khối trong tim cao hơn ngay cả khi được điều trị bằng thuốc chống đông đầy đủ, gồm những bệnh nhân mắc bệnh amyloid tim, bệnh tim thấp khớp và bệnh cơ tim phì đại (HCM).

Nên cân nhắc chụp hình tim trước khi triệt phá qua catheter ở những nhóm bệnh nhân có nguy cơ cao này bất kể OAC có hiệu quả trước đó hay không. Các nghiên cứu quan sát cho thấy những bệnh nhân có hồ sơ nguy cơ huyết khối tắc mạch thấp có thể được xử trí mà không cần quan sát LAA, [651–653] nhưng chưa có RCT nào được thực hiện (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S21).

Đối với những bệnh nhân đã được dùng thuốc chống đông trước khi tiến hành thủ thuật triệt phá, khuyến cáo không nên gián đoạn OAC (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S22).[654–656] Những bệnh nhân bị gián đoạn OAC cho thấy nguy cơ đột quỵ thầm lặng tăng lên khi chụp cộng hưởng từ não (MRI) so với những bệnh nhân không bị gián đoạn OAC. [657–659] Trong chiến lược DOAC không bị gián đoạn thực sự đối với liều dùng một lần mỗi ngày, có thể cân nhắc chuyển sang dùng thuốc vào buổi tối trước khi tiến hành thủ thuật để giảm nguy cơ chảy máu. Các thử nghiệm ngẫu nhiên cho thấy tính an toàn và hiệu quả tương đương với OAC bị gián đoạn tối thiểu (không dùng liều DOAC buổi sáng vào ngày tiến hành thủ thuật) và chiến lược OAC quanh thời điểm triệt phá hoàn toàn không bị gián đoạn. [655]

Thuốc chống đông bằng heparin trong quá trình triệt phá AF là phương pháp phổ biến. [554] DOAC sau khi triệt phá nên được tiếp tục theo phác đồ dùng thuốc khi đã cầm máu.[335,554,647] Tất cả bệnh nhân nên được duy trì dùng OAC trong ít nhất 2 tháng sau quy trình triệt phá AF bất kể nguy cơ huyết khối tắc mạch ước tính (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S23). [647] Các phân tích tổng hợp các nghiên cứu quan sát đã cố gắng đánh giá tính an toàn của việc ngừng điều trị OAC sau khi triệt phá qua catheter đối với AF, nhưng kết quả không đồng nhất. [660–663] Cho đến khi hoàn thành các RCT có liên quan (ví dụ: NCT02168829), nên tiếp tục liệu pháp OAC sau khi cắt đốt AF theo điểm CHA2DS2-VA của bệnh nhân chứ không phải thành công được nhận thấy của quy trình triệt phá. [554]

Bảng khuyến cáo 20 – Khuyến cáo về việc dùng thuốc chống đông đường uống

Khuyến cáo Classa Levelb
Bắt đầu dùng thuốc chống đông đường uống được khuyến cáo ít nhất 3 tuần trước khi triệt phá qua catheter ở những bệnh nhân AF có nguy cơ huyết khối tắc mạch cao, để ngăn ngừa đột quỵ do thiếu máu cục bộ quanh thủ thuật và huyết khối tắc mạch. [554,647]  

I

 

C

Khuyến cáo dùng thuốc chống đông đường uống liên tục ở những bệnh nhân trải qua triệt phá AF quan catheter để ngăn ngừa đột quỵ do thiếu máu cục bộ quanh thủ thuật và huyết khối tắc mạch. [664,665]  

I

 

A

Khuyến cáo tiếp tục dùng thuốc chống đông đường uống trong ít nhất 2 tháng sau khi triệt phá AF ở tất cả bệnh nhân, bất kể kết quả nhịp tim hay điểm CHA2DS2-VA, để giảm nguy cơ đột quỵ do thiếu máu cục bộ quanh thủ thuật và huyết khối tắc mạch. [554,663]  

I

 

C

Khuyến cáo tiếp tục dùng thuốc chống đông đường uống sau khi triệt phá AF theo điểm CHA2DS2-VA của bệnh nhân, chứ không phải mức độ thành công được nhận thấy của thủ thuật triệt phá, để ngăn ngừa đột quỵ do thiếu máu cục bộ và huyết khối tắc mạch. [554]  

I

 

C

Hình ảnh tim nên được xem xét trước khi triệt phá AF qua catheter ở những bệnh nhân có nguy cơ cao bị đột quỵ do thiếu máu cục bộ và huyết khối tắc mạch mặc dù đã dùng thuốc chống đông đường uống để loại trừ huyết khối. [649,650]  

IIa

 

B

 

AF: rung nhĩ; CHA2DS2-VA: suy tim sung huyết, tăng huyết áp, tuổi ≥75 (2 điểm), đái tháo đường, đột quỵ/thiếu máu cục bộ thoáng qua/huyết khối động mạch (2 điểm), bệnh mạch máu, tuổi 65–74.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng.

7.2.7. Triệt phá qua nội so và hỗn hợp

Triệt phá AF ngoại khoa ít xâm lấn có thể được thực hiện thông qua phương pháp tiếp cận nội soi ngực hoặc phương pháp tiếp cận dưới xương ức. Thuật ngữ nội soi gồm cả hai chiến lược. Các phương pháp triệt phá kết hợp đã được phát triển, trong đó triệt phá nội soi màng ngoài tim trên tim đang đập được thực hiện kết hợp với triệt phá qua catheter nội tâm mạc, theo quy trình đồng thời hoặc tuần tự. Cơ sở hợp lý cho việc kết hợp phương pháp tiếp cận nội tâm mạc với phương pháp tiếp cận ngoại tâm mạc là có thể theo đuổi một chiến lược triệt phá xuyên thành (transmural ablation) hiệu quả hơn.[666,667]

Đối với AF kịch phát, có thể cân nhắc phương pháp triệt phá nội soi hoặc kết hợp sau khi chiến lược triệt phá qua catheter qua da không thành công. [668–670] Theo dõi dài hạn của RCT FAST (trung bình 7,0 năm), gồm những bệnh nhân AF kịch phát và dai dẳng, cho thấy tình trạng loạn nhịp tim tái phát là phổ biến nhưng thấp hơn đáng kể khi triệt phá qua nội soi ngực so với triệt phá qua catheter: 34/61 bệnh nhân (56%) so với 55/63 bệnh nhân (87%), với P < .001 khi so sánh. [669] Đối với AF dai dẳng, phương pháp triệt phá nội soi hoặc kết hợp phù hợp làm thủ thuật đầu tiên để duy trì nhịp xoang dài hạn ở những bệnh nhân được chọn. [667–672] Một phân tích tổng hợp của ba RCT đã xác nhận tỷ lệ tái phát loạn nhịp nhĩ thấp hơn sau khi triệt phá qua nội soi ngực so với qua catheter (tỷ lệ mắc bệnh, 0,55; 95% CI, 0,38–0,78; không có sự khác biệt giữa các thử nghiệm). [669] Một RCT với thời gian theo dõi 12 tháng được công bố sau khi phân tích tổng hợp ở những bệnh nhân AF dai dẳng lâu năm không tìm thấy sự khác biệt về khả năng không bị loạn nhịp khi so sánh triết phá qua nội soi ngực với triệt phá qua catheter. [673] Mặc dù tỷ lệ mắc bệnh và tử vong chung của cả hai kỹ thuật đều thấp, triệt phá qua nội soi và triệt phá kết hợp có tỷ lệ biến chứng cao hơn triệt phá qua catheter, nhưng tỷ lệ tử vong, nhồi máu cơ tim hoặc đột quỵ dài hạn tương tự nhau. [667,669]

Các thử nghiệm gần đây hơn đã đánh giá hiệu quả và tính an toàn của phương pháp tiếp cận kết hợp màng ngoài tim cộng với nội tâm mạc trong điều trị AF dai dẳng không đáp ứng với liệu pháp AAD, gồm một RCT đơn trung tâm [670] và hai RCT đa trung tâm. [671,674] Trong các thử nghiệm này, triệt phá kết hợp luôn vượt trội hơn triệt phá qua catheter đơn thuần trong việc duy trì nhịp xoang dài hạn, mà không có sự khác biệt đáng kể về các biến cố bất lợi lớn. Đáng chú ý là các nghiên cứu này thường được thực hiện tại các trung tâm có nhiều kinh nghiệm (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S24).

Bảng khuyến cáo 21 — Khuyến cáo cho triệt phá AF nội soi và kết hợp (xem thêm Bằng chứng Bảng 21)

Khuyến cáo Classa Levelb
Tiếp tục dùng thuốc chống đông đường uống được khuyến cáo ở những bệnh nhân AF có nguy cơ huyết khối tắc mạch cao sau khi triệt phá AF đồng thời, nội soi hoặc kết hợp, không phụ thuộc vào kết quả nhịp hoặc loại trừ LAA, để ngăn ngừa đột quỵ do thiếu máu cục bộ và huyết khối tắc mạch.  

I

 

C

Cần cân nhắc các thủ thuật triệt phá nội soi và kết hợp ở những bệnh nhân AF dai dẳng có triệu chứng kháng trị liệu AAD để ngăn ngừa các triệu chứng, tái phát và tiến triển của AF, trong một nhóm kiểm soát nhịp tim ra quyết định chung gồm các bác sĩ điện sinh lý và bác sĩ phẫu thuật. [667–671,674]  

IIa

 

A

Có thể cân nhắc các thủ thuật triệt phá nội soi và kết hợp ở những bệnh nhân AF kịch phát có triệu chứng kháng trị liệu AAD và chiến lược triệt phá qua catheter qua da không thành công để ngăn ngừa các triệu chứng, tái phát và tiến triển của AF, trong một nhóm kiểm soát nhịp tim ra quyết định chung gồm các bác sĩ điện sinh lý và bác sĩ phẫu thuật. [668,669]  

IIb

 

B

AAD: thuốc chống loạn nhịp; AF: rung nhĩ; LAA: phần phụ nhĩ trái.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

7.2.8. Triệt phá AF trong quá trình phẫu thuật

Rung nhĩ là một yếu tố nguy cơ đáng kể đối với tử vong sớm, tử vong muộn và đột quỵ ở những bệnh nhân được chuyển đến phẫu thuật tim. [675–677] Phương pháp triết phá ngoại khoa được xác nhận tốt nhất là quy trình Maze, gồm một mô hình tổn thương xuyên thành bao gồm PVI, với các sửa đổi tiếp theo sử dụng tần số radio lưỡng cực và/hoặc triệt phá nhiệt lạnh với cắt bỏ LAA (xem Dữ liệu bổ sung trực tuyến, Bảng bằng chứng bổ sung S25). [678–681] Giáo dục và đào tạo, hợp tác chặt chẽ trong một nhóm đa ngành và ra quyết định chung có thể cải thiện chất lượng và kết quả triệt phá ngoại khoa. [682]

Một số RCT đã chỉ ra triệt phá ngoại khoa AF trong quá trình phẫu thuật tim làm tăng khả năng không bị tái phát loạn nhịp tim. [683–688] Thực hiện triệt phá ngoại khoa AF, chủ yếu nhắm vào những bệnh nhân cần phẫu thuật van hai lá, không liên quan đến tỷ lệ mắc bệnh hoặc tử vong tăng. [678,683–685] Dữ liệu quan sát, gồm các sổ đăng ký lớn, đã hỗ trợ giá trị tiềm năng của triệt phá AF ngoại khoa, [689–700] nhưng cần có thêm các RCT để đánh giá những bệnh nhân nào nên được lựa chọn và liệu phương pháp này có góp phần ngăn ngừa đột quỵ, huyết khối tắc mạch và tử vong hay không.

Dữ liệu về tỷ lệ cấy máy tạo nhịp tim sau triệt phá AF ngoại khoa là khác nhau và có thể bị ảnh hưởng do kinh nghiệm của trung tâm và bệnh nhân được điều trị (ví dụ: bệnh nút xoang tiềm ẩn). Trong một đánh giá có hệ thống của 22 RCT (1726 bệnh nhân), tỷ lệ cấy máy tạo nhịp vĩnh viễn cao hơn khi triệt phá AF ngoại khoa so với khi không phẫu thuật AF đồng thời (6,0% so với 4,1%; RR, 1,69; 95% CI, 1,12–2,54).701 Dữ liệu đăng ký quan sát từ các nhóm đối chứng đương thời (2011–2020) cho thấy tỷ lệ máy tạo nhịp chung sau phẫu thuật là 2,1% ở những bệnh nhân được chọn để triệt phá AF ngoại khoa, không có tác động rõ ràng nào của triệt phá ngoại khoa đối với nhu cầu về máy tạo nhịp, nhưng tỷ lệ cao hơn ở những bệnh nhân cần phẫu thuật đa van. [702] Với phương pháp tiếp cận an toàn là trên hết, nên hình ảnh học được khuyên trong quá trình triệt phá AF ngoại khoa để loại trừ huyết khối và giúp lên kế hoạch tiếp cận ngoại khoa (ví dụ như với TOE), bất kể việc sử dụng thuốc chống đông hiệu quả trước thủ thuật hay không.

Bảng khuyến cáo 22 — Khuyến cáo về triệt phá AF trong phẫu thuật tim (xem thêm Bảng bằng chứng 22)

Khuyến cáo Classa Levelb
Triệt phá ngoại khoa đồng thời được khuyến cáo ở những bệnh nhân phẫu thuật van hai lá và AF phù hợp với chiến lược kiểm soát nhịp tim để ngăn ngừa các triệu chứng và tái phát AF, với quyết định chung được hỗ trợ bằng một nhóm bác sĩ điện sinh lý và bác sĩ phẫu thuật loạn nhịp tim giàu kinh nghiệm. [683– 685,701]  

I

 

A

Khuyến cáo hình ảnh học trong thủ thuật để phát hiện huyết khối nhĩ trái ở những bệnh nhân triệt phá ngoại khoa để hướng dẫn chiến lược phẫu thuật, độc lập với việc sử dụng thuốc chống đông đường uống, nhằm ngăn ngừa đột quỵ do thiếu máu cục bộ và huyết khối tắc mạch quanh thủ thuật.  

I

 

C

Cần cân nhắc triệt phá ngoại khoa đồng thời ở những bệnh nhân phẫu thuật tim không phải van hai lá và AF phù hợp với chiến lược kiểm soát nhịp tim để ngăn ngừa các triệu chứng và tái phát AF, với quyết định chung được hỗ trợ bởi một nhóm bác sĩ điện sinh lý và bác sĩ phẫu thuật loạn nhịp tim giàu kinh nghiệm. [701,703–707]  

IIa

 

B

AF: rung nhĩ.

a Class khuyến cáo.

b Mức độ bằng chứng

7.2.9. Nhịp nhanh nhĩ sau cô lập tĩnh mạch phổi

Sau bất kỳ quá trình triệt phá nào đối với AF, loạn nhịp tái phát có thể biểu hiện dưới dạng AF, nhưng cũng có thể là nhịp nhanh nhĩ (AT). Mặc dù bác sĩ điều trị có thể coi AT là một bước đi đúng hướng, nhưng quan điểm này thường không được bệnh nhân chia sẻ vì AT có thể có triệu chứng tương đương hoặc nhiều hơn AF ban đầu. Theo thông lệ, tái phát loạn nhịp sớm sau PVI (cho dù là AT, AF hay cuồng nhĩ) được coi là có khả năng tạm thời. [708] Các thử nghiệm gần đây sử dụng máy ghi vòng có thể cấy liên tục để theo dõi quanh thủ thuật đã cung cấp thông tin chi tiết về tỷ lệ mắc và ý nghĩa của tái phát loạn nhịp sớm, đồng thời đã xác nhận mối liên hệ giữa tái phát sớm và tái phát muộn.  [709] Thảo luận về các lựa chọn quản lý AT sau cắt đốt lý tưởng nhất là nên có sự tham gia của một nhóm đa chuyên khoa có kinh nghiệm trong quản lý can thiệp các rối loạn nhịp phức tạp, xem xét các thách thức về kỹ thuật, hiệu quả của thủ thuật và tính an toàn, trong bối cảnh sở thích của bệnh nhân.

(Còn nữa)

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO (458 – 707)

  1. Hess PL, Sheng S, Matsouaka R, DeVore AD, Heidenreich PA, Yancy CW, et al. Strict versus lenient versus poor rate control among patients with atrial fibrillation and heart
    failure (from the get with the guidelines—heart failure program). Am J Cardiol 2020; 125:894–900. https://doi.org/10.1016/j.amjcard.2019.12.025
  2. Van Gelder IC, Groenveld HF, Crijns HJ, Tuininga YS, Tijssen JG, Alings AM, et al.
    Lenient versus strict rate control in patients with atrial fibrillation. N Engl J Med
    2010;362:1363–73. https://doi.org/10.1056/NEJMoa1001337
  3. Olshansky B, Rosenfeld LE, Warner AL, Solomon AJ, O’Neill G, Sharma A, et al. The
    Atrial Fibrillation Follow-up Investigation of Rhythm Management (AFFIRM) study: approaches to control rate in atrial fibrillation. J Am Coll Cardiol 2004;43:1201–8. https://
    doi.org/10.1016/j.jacc.2003.11.032
    461. Ulimoen SR, Enger S, Carlson J, Platonov PG, Pripp AH, Abdelnoor M, et al.
    Comparison of four single-drug regimens on ventricular rate and arrhythmia-related
    symptoms in patients with permanent atrial fibrillation. Am J Cardiol 2013;111:
    225–30. https://doi.org/10.1016/j.amjcard.2012.09.020
  4. Tisdale JE, Padhi ID, Goldberg AD, Silverman NA, Webb CR, Higgins RS, et al. A randomized, double-blind comparison of intravenous diltiazem and digoxin for atrial fibrillation after coronary artery bypass surgery. Am Heart J 1998;135:739–47. https://doi.
    org/10.1016/S0002-8703(98)70031-6
    463. Khand AU, Rankin AC, Martin W, Taylor J, Gemmell I, Cleland JG. Carvedilol alone or
    in combination with digoxin for the management of atrial fibrillation in patients with
    heart failure? J Am Coll Cardiol 2003;42:1944–51. https://doi.org/10.1016/j.jacc.2003.
    07.020
    464. Nikolaidou T, Channer KS. Chronic atrial fibrillation: a systematic review of medical
    heart rate control management. Postgrad Med J 2009;85:303–12. https://doi.org/10.
    1136/pgmj.2008.068908
    465. Figulla HR, Gietzen F, Zeymer U, Raiber M, Hegselmann J, Soballa R, et al. Diltiazem
    improves cardiac function and exercise capacity in patients with idiopathic dilated cardiomyopathy. Results of the Diltiazem in Dilated Cardiomyopathy Trial. Circulation
    1996;94:346–52. https://doi.org/10.1161/01.CIR.94.3.346
  5. Andrade JG, Roy D, Wyse DG, Tardif JC, Talajic M, Leduc H, et al. Heart rate and adverse outcomes in patients with atrial fibrillation: a combined AFFIRM and AF-CHF
    substudy. Heart Rhythm 2016;13:54–61. https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2015.08.028
    467. Weerasooriya R, Davis M, Powell A, Szili-Torok T, Shah C, Whalley D, et al. The
    Australian Intervention Randomized Control of Rate in Atrial Fibrillation Trial
    (AIRCRAFT). J Am Coll Cardiol 2003;41:1697–702. https://doi.org/10.1016/S0735-
    1097(03)00338-3
  6. Lim KT, Davis MJ, Powell A, Arnolda L, Moulden K, Bulsara M, et al. Ablate and pace
    strategy for atrial fibrillation: long-term outcome of AIRCRAFT trial. Europace 2007;9:
    498–505. https://doi.org/10.1093/europace/eum091
  7. Vijayaraman P, Subzposh FA, Naperkowski A. Atrioventricular node ablation and His
    bundle pacing. Europace 2017;19:iv10–6. https://doi.org/10.1093/europace/eux263
    470. Brignole M, Pokushalov E, Pentimalli F, Palmisano P, Chieffo E, Occhetta E, et al. A randomized controlled trial of atrioventricular junction ablation and cardiac resynchronization therapy in patients with permanent atrial fibrillation and narrow QRS. Eur Heart
    J
    2018;39:3999–4008. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehy555
  8. Brignole M, Pentimalli F, Palmisano P, Landolina M, Quartieri F, Occhetta E, et al. AV
    junction ablation and cardiac resynchronization for patients with permanent atrial fibrillation and narrow QRS: the APAF-CRT mortality trial. Eur Heart J 2021;42:4731–9.
    https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehab569
    472. Delle Karth G, Geppert A, Neunteufl T, Priglinger U, Haumer M, Gschwandtner M,
    et al. Amiodarone versus diltiazem for rate control in critically ill patients with atrial
    tachyarrhythmias. Crit Care Med 2001;29:1149–53. https://doi.org/10.1097/
    00003246-200106000-00011
    473. Hou ZY, Chang MS, Chen CY, Tu MS, Lin SL, Chiang HT, et al. Acute treatment of
    recent-onset atrial fibrillation and flutter with a tailored dosing regimen of intravenous
    amiodarone. A randomized, digoxin-controlled study. Eur Heart J 1995;16:521–8.
    https://doi.org/10.1093/oxfordjournals.eurheartj.a060945
    474. Van Gelder IC, Wyse DG, Chandler ML, Cooper HA, Olshansky B, Hagens VE, et al.
    Does intensity of rate-control influence outcome in atrial fibrillation? An analysis of
    pooled data from the RACE and AFFIRM studies. Europace 2006;8:935–42. https://
    doi.org/10.1093/europace/eul106
    475. Scheuermeyer FX, Grafstein E, Stenstrom R, Christenson J, Heslop C, Heilbron B, et al.
    Safety and efficiency of calcium channel blockers versus beta-blockers for rate control
    in patients with atrial fibrillation and no acute underlying medical illness. Acad Emerg
    Med
    2013;20:222–30. https://doi.org/10.1111/acem.12091
  9. Siu CW, Lau CP, Lee WL, Lam KF, Tse HF. Intravenous diltiazem is superior to intravenous amiodarone or digoxin for achieving ventricular rate control in patients with
    acute uncomplicated atrial fibrillation. Crit Care Med 2009;37:2174–9, quiz 2180.
    https://doi.org/10.1097/CCM.0b013e3181a02f56
    477. Perrett M, Gohil N, Tica O, Bunting KV, Kotecha D. Efficacy and safety of intravenous
    beta-blockers in acute atrial fibrillation and flutter is dependent on beta-1 selectivity: a
    systematic review and meta-analysis of randomised trials. Clin Res Cardiol 2023;
    113:831–41. https://doi.org/10.1007/s00392-023-02295-0
  10. Darby AE, Dimarco JP. Management of atrial fibrillation in patients with structural
    heart disease. Circulation 2012;125:945–57. https://doi.org/10.1161/ CIRCULATIONAHA. 111.019935
    479. Imamura T, Kinugawa K. Novel rate control strategy with landiolol in patients with cardiac dysfunction and atrial fibrillation. ESC Heart Fail 2020;7:2208–13. https://doi.org/
    10.1002/ehf2.12879
    480. Ulimoen SR, Enger S, Pripp AH, Abdelnoor M, Arnesen H, Gjesdal K, et al. Calcium
    channel blockers improve exercise capacity and reduce N-terminal Pro-B-type natriuretic peptide levels compared with beta-blockers in patients with permanent atrial
    fibrillation. Eur Heart J 2014;35:517–24. https://doi.org/10.1093/eurheartj/eht429
  11. Connolly SJ, Camm AJ, Halperin JL, Joyner C, Alings M, Amerena J, et al. Dronedarone
    in high-risk permanent atrial fibrillation. N Engl J Med 2011;365:2268–76. https://doi.
    org/10.1056/NEJMoa1109867
  12. Karwath A, Bunting KV, Gill SK, Tica O, Pendleton S, Aziz F, et al. Redefining betablocker response in heart failure patients with sinus rhythm and atrial fibrillation: a machine learning cluster analysis. Lancet 2021;398:1427–35. https://doi.org/10.1016/
    S0140-6736(21)01638-X
    483. Koldenhof T, Wijtvliet P, Pluymaekers N, Rienstra M, Folkeringa RJ, Bronzwaer P, et al.
    Rate control drugs differ in the prevention of progression of atrial fibrillation. Europace
    2022;24:384–9. https://doi.org/10.1093/europace/euab191
  13. Champsi A, Mitchell C, Tica O, Ziff OJ, Bunting KV, Mobley AR, et al. Digoxin in patients with heart failure and/or atrial fibrillation: a systematic review and meta-analysis
    of 5.9 million patient years of follow-up. SSRN preprint. 2023. https://doi.org/10.2139/
    ssrn.4544769.
    485. Andrews P, Anseeuw K, Kotecha D, Lapostolle F, Thanacoody R. Diagnosis and practical management of digoxin toxicity: a narrative review and consensus. Eur J Emerg
    Med
    2023;30:395–401. https://doi.org/10.1097/MEJ.0000000000001065
  14. Bavendiek U, Berliner D, Dávila LA, Schwab J, Maier L, Philipp SA, et al. Rationale and
    design of the DIGIT-HF trial (DIGitoxin to Improve ouTcomes in patients with advanced chronic Heart Failure): a randomized, double-blind, placebo-controlled study.
    Eur J Heart Fail 2019;21:676–84. https://doi.org/10.1002/ejhf.1452
  15. Clemo HF, Wood MA, Gilligan DM, Ellenbogen KA. Intravenous amiodarone for acute
    heart rate control in the critically ill patient with atrial tachyarrhythmias. Am J Cardiol
    1998;81:594–8. https://doi.org/10.1016/S0002-9149(97)00962-4
  16. Queiroga A, Marshall HJ, Clune M, Gammage MD. Ablate and pace revisited: long term
    survival and predictors of permanent atrial fibrillation. Heart 2003;89:1035–8. https://
    doi.org/10.1136/heart.89.9.1035
    489. Geelen P, Brugada J, Andries E, Brugada P. Ventricular fibrillation and sudden death
    after radiofrequency catheter ablation of the atrioventricular junction. Pacing Clin
    Electrophysiol
    1997;20:343–8. https://doi.org/10.1111/j.1540-8159.1997.tb06179.x
  17. Wang RX, Lee HC, Hodge DO, Cha YM, Friedman PA, Rea RF, et al. Effect of pacing
    method on risk of sudden death after atrioventricular node ablation and pacemaker
    implantation in patients with atrial fibrillation. Heart Rhythm 2013;10:696–701.
    https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2013.01.021
    491. Chatterjee NA, Upadhyay GA, Ellenbogen KA, McAlister FA, Choudhry NK, Singh JP.
    Atrioventricular nodal ablation in atrial fibrillation: a meta-analysis and systematic review. Circ Arrhythm Electrophysiol 2012;5:68–76. https://doi.org/10.1161/CIRCEP.111.
    967810
  18. Bradley DJ, Shen WK. Overview of management of atrial fibrillation in symptomatic
    elderly patients: pharmacologic therapy versus AV node ablation. Clin Pharmacol
    Ther
    2007;81:284–7. https://doi.org/10.1038/sj.clpt.6100062
  19. Ozcan C, Jahangir A, Friedman PA, Patel PJ, Munger TM, Rea RF, et al. Long-term survival after ablation of the atrioventricular node and implantation of a permanent pacemaker in patients with atrial fibrillation. N Engl J Med 2001;344:1043–51. https://doi.
    org/10.1056/NEJM200104053441403
    494. Chatterjee NA, Upadhyay GA, Ellenbogen KA, Hayes DL, Singh JP. Atrioventricular
    nodal ablation in atrial fibrillation: a meta-analysis of biventricular vs. right ventricular
    pacing mode. Eur J Heart Fail 2012;14:661–7. https://doi.org/10.1093/eurjhf/hfs036
  20. Huang W, Su L, Wu S. Pacing treatment of atrial fibrillation patients with heart failure:
    His bundle pacing combined with atrioventricular node ablation. Card Electrophysiol
    Clin
    2018;10:519–35. https://doi.org/10.1016/j.ccep.2018.05.016
  21. Huang W, Su L, Wu S, Xu L, Xiao F, Zhou X, et al. Benefits of permanent His bundle
    pacing combined with atrioventricular node ablation in atrial fibrillation patients with
    heart failure with both preserved and reduced left ventricular ejection fraction. J Am
    Heart Assoc
    2017;6:e005309. https://doi.org/10.1161/JAHA.116.005309
  22. Van Gelder IC, Hagens VE, Bosker HA, Kingma JH, Kamp O, Kingma T, et al. A comparison of rate control and rhythm control in patients with recurrent persistent atrial
    fibrillation. N Engl J Med 2002;347:1834–40. https://doi.org/10.1056/NEJMoa021375
  23. Wyse DG, Waldo AL, DiMarco JP, Domanski MJ, Rosenberg Y, Schron EB, et al. A
    comparison of rate control and rhythm control in patients with atrial fibrillation. N
    Engl J Med
    2002;347:1825–33. https://doi.org/10.1056/NEJMoa021328
  24. Hohnloser SH, Kuck KH, Lilienthal J. Rhythm or rate control in atrial fibrillation—
    pharmacological intervention in atrial fibrillation (PIAF): a randomised trial. Lancet
    2000;356:1789–94. https://doi.org/10.1016/S0140-6736(00)03230-X
  25. Roy D, Talajic M, Nattel S, Wyse DG, Dorian P, Lee KL, et al. Rhythm control versus
    rate control for atrial fibrillation and heart failure. N Engl J Med 2008;358:2667–77.
    https://doi.org/10.1056/NEJMoa0708789
    501. Blomström-Lundqvist C, Gizurarson S, Schwieler J, Jensen SM, Bergfeldt L, Kennebäck
    G, et al. Effect of catheter ablation vs antiarrhythmic medication on quality of life in
    patients with atrial fibrillation: the CAPTAF randomized clinical trial. JAMA 2019;

321:1059–68. https://doi.org/10.1001/jama.2019.0335

  1. Mark DB, Anstrom KJ, Sheng S, Piccini JP, Baloch KN, Monahan KH, et al. Effect of catheter ablation vs medical therapy on quality of life among patients with atrial fibrillation:
    the CABANA randomized clinical trial. JAMA 2019;321:1275–85. https://doi.org/10.
    1001/jama.2019.0692
    503. Wilber DJ, Pappone C, Neuzil P, De Paola A, Marchlinski F, Natale A, et al. Comparison
    of antiarrhythmic drug therapy and radiofrequency catheter ablation in patients with
    paroxysmal atrial fibrillation: a randomized controlled trial. JAMA 2010;303:333–40. https://doi.org/10.1001/jama.2009.2029
    504. Calkins H, Reynolds MR, Spector P, Sondhi M, Xu Y, Martin A, et al. Treatment of atrial
    fibrillation with antiarrhythmic drugs or radiofrequency ablation: two systematic literature reviews and meta-analyses. Circ Arrhythm Electrophysiol 2009;2:349–61. https://doi.
    org/10.1161/CIRCEP.108.824789
    505. Jais P, Cauchemez B, Macle L, Daoud E, Khairy P, Subbiah R, et al. Catheter ablation
    versus antiarrhythmic drugs for atrial fibrillation: the A4 study. Circulation 2008;118:
    2498–505. https://doi.org/10.1161/CIRCULATIONAHA.108.772582
  2. Packer DL, Kowal RC, Wheelan KR, Irwin JM, Champagne J, Guerra PG, et al.
    Cryoballoon ablation of pulmonary veins for paroxysmal atrial fibrillation: first results
    of the North American Arctic Front (STOP AF) pivotal trial. J Am Coll Cardiol 2013;61:
    1713–23. https://doi.org/10.1016/j.jacc.2012.11.064
  3. Poole JE, Bahnson TD, Monahan KH, Johnson G, Rostami H, Silverstein AP, et al.
    Recurrence of atrial fibrillation after catheter ablation or antiarrhythmic drug therapy
    in the CABANA trial. J Am Coll Cardiol 2020;75:3105–18. https://doi.org/10.1016/j.jacc.
    2020.04.065
    508. Mont L, Bisbal F, Hernandez-Madrid A, Perez-Castellano N, Vinolas X, Arenal A, et al.
    Catheter ablation vs. antiarrhythmic drug treatment of persistent atrial fibrillation: a
    multicentre, randomized, controlled trial (SARA study). Eur Heart J 2014;35:501–7.
    https://doi.org/10.1093/eurheartj/eht457
    509. Scherr D, Khairy P, Miyazaki S, Aurillac-Lavignolle V, Pascale P, Wilton SB, et al.
    Five-year outcome of catheter ablation of persistent atrial fibrillation using termination
    of atrial fibrillation as a procedural endpoint. Circ Arrhythm Electrophysiol 2015;8:18–24.
    https://doi.org/10.1161/CIRCEP.114.001943
    510. Lau DH, Nattel S, Kalman JM, Sanders P. Modifiable risk factors and atrial fibrillation.
    Circulation 2017;136:583–96. https://doi.org/10.1161/CIRCULATIONAHA.116.
    023163
  4. Sanders P, Elliott AD, Linz D. Upstream targets to treat atrial fibrillation. J Am Coll
    Cardiol
    2017;70:2906–8. https://doi.org/10.1016/j.jacc.2017.10.043
  5. Hohnloser SH, Crijns HJ, van Eickels M, Gaudin C, Page RL, Torp-Pedersen C, et al.
    Effect of dronedarone on cardiovascular events in atrial fibrillation. N Engl J Med
    2009;360:668–78. https://doi.org/10.1056/NEJMoa0803778
  6. Sohns C, Fox H, Marrouche NF, Crijns H, Costard-Jaeckle A, Bergau L, et al. Catheter
    ablation in end-stage heart failure with atrial fibrillation. N Engl J Med 2023;389:
    1380–9. https://doi.org/10.1056/NEJMoa2306037
  7. Di Biase L, Mohanty P, Mohanty S, Santangeli P, Trivedi C, Lakkireddy D, et al.
    Ablation versus amiodarone for treatment of persistent atrial fibrillation in patients
    with congestive heart failure and an implanted device: results from the AATAC multicenter randomized trial. Circulation 2016;133:1637–44. https://doi.org/10.1161/
    CIRCULATIONAHA. 115.019406
  8. Nuotio I, Hartikainen JE, Gronberg T, Biancari F, Airaksinen KE. Time to cardioversion
    for acute atrial fibrillation and thromboembolic complications. JAMA 2014;312:647–9.
    https://doi.org/10.1001/jama.2014.3824
    516. Garg A, Khunger M, Seicean S, Chung MK, Tchou PJ. Incidence of thromboembolic
    complications within 30 days of electrical cardioversion performed within 48 hours
    of atrial fibrillation onset. JACC Clin Electrophysiol 2016;2:487–94. https://doi.org/10.
    1016/j.jacep.2016.01.018
    517. Tampieri A, Cipriano V, Mucci F, Rusconi AM, Lenzi T, Cenni P. Safety of cardioversion
    in atrial fibrillation lasting less than 48 h without post-procedural anticoagulation in patients at low cardioembolic risk. Intern Emerg Med 2018;13:87–93. https://doi.org/10. 1007/s11739-016-1589-1
    518. Airaksinen KE, Gronberg T, Nuotio I, Nikkinen M, Ylitalo A, Biancari F, et al.
    Thromboembolic complications after cardioversion of acute atrial fibrillation: the
    FinCV (Finnish CardioVersion) study. J Am Coll Cardiol 2013;62:1187–92. https://doi. org/10.1016/j.jacc.2013.04.089
    519. Hansen ML, Jepsen RM, Olesen JB, Ruwald MH, Karasoy D, Gislason GH, et al.
    Thromboembolic risk in 16 274 atrial fibrillation patients undergoing direct current
    cardioversion with and without oral anticoagulant therapy. Europace 2015;17:18–23.
    https://doi.org/10.1093/europace/euu189
    520. Bonfanti L, Annovi A, Sanchis-Gomar F, Saccenti C, Meschi T, Ticinesi A, et al.
    Effectiveness and safety of electrical cardioversion for acute-onset atrial fibrillation
    in the emergency department: a real-world 10-year single center experience. Clin
    Exp Emerg Med
    2019;6:64–9. https://doi.org/10.15441/ceem.17.286
  9. Telles-Garcia N, Dahal K, Kocherla C, Lip GYH, Reddy P, Dominic P. Non-vitamin K
    antagonists oral anticoagulants are as safe and effective as warfarin for cardioversion of
    atrial fibrillation: a systematic review and meta-analysis. Int J Cardiol 2018;268:143–8.
    https://doi.org/10.1016/j.ijcard.2018.04.034
    522. Klein AL, Grimm RA, Murray RD, Apperson-Hansen C, Asinger RW, Black IW, et al.
    Use of transesophageal echocardiography to guide cardioversion in patients with atrial
    fibrillation. N Engl J Med 2001;344:1411–20. https://doi.org/10.1056/NEJM200105
    103441901
    523. Brunetti ND, Tarantino N, De Gennaro L, Correale M, Santoro F, Di Biase M. Direct
    oral anti-coagulants compared to vitamin-K antagonists in cardioversion of atrial fibrillation: an updated meta-analysis. J Thromb Thrombolysis 2018;45:550–6. https://doi.org/
    10.1007/s11239-018-1622-5
    524. Steinberg JS, Sadaniantz A, Kron J, Krahn A, Denny DM, Daubert J, et al. Analysis of
    cause-specific mortality in the Atrial Fibrillation Follow-up Investigation of Rhythm Management (AFFIRM) study. Circulation 2004;109:1973–80. https://doi.org/10.1161/
    01.CIR.0000118472.77237.FA
    525. Crijns HJ, Weijs B, Fairley AM, Lewalter T, Maggioni AP, Martín A, et al. Contemporary
    real life cardioversion of atrial fibrillation: results from the multinational RHYTHM-AF
    study. Int J Cardiol 2014;172:588–94. https://doi.org/10.1016/j.ijcard.2014.01.099
  10. Kirchhof P, Andresen D, Bosch R, Borggrefe M, Meinertz T, Parade U, et al. Short-term
    versus long-term antiarrhythmic drug treatment after cardioversion of atrial fibrillation
    (Flec-SL): a prospective, randomised, open-label, blinded endpoint assessment trial.
    Lancet 2012;380:238–46. https://doi.org/10.1016/S0140-6736(12)60570-4
  11. Zhu W, Wu Z, Dong Y, Lip GYH, Liu C. Effectiveness of early rhythm control in improving clinical outcomes in patients with atrial fibrillation: a systematic review and
    meta-analysis. BMC Med 2022;20:340. https://doi.org/10.1186/s12916-022-02545-4
  12. Stellbrink C, Nixdorff U, Hofmann T, Lehmacher W, Daniel WG, Hanrath P, et al.
    Safety and efficacy of enoxaparin compared with unfractionated heparin and oral anticoagulants for prevention of thromboembolic complications in cardioversion of nonvalvular atrial fibrillation: the Anticoagulation in Cardioversion using Enoxaparin (ACE)
    trial. Circulation 2004;109:997–1003. https://doi.org/10.1161/01.CIR.0000120509.
    64740.DC
  13. Lip GY, Hammerstingl C, Marin F, Cappato R, Meng IL, Kirsch B, et al. Left atrial thrombus resolution in atrial fibrillation or flutter: results of a prospective study with rivaroxaban (X-TRA) and a retrospective observational registry providing baseline data
    (CLOT-AF). Am Heart J 2016;178:126–34. https://doi.org/10.1016/j.ahj.2016.05.007
    530. Stiell IG, Eagles D, Nemnom MJ, Brown E, Taljaard M, Archambault PM, et al. Adverse
    events associated with electrical cardioversion in patients with acute atrial fibrillation
    and atrial flutter. Can J Cardiol 2021;37:1775–82. https://doi.org/10.1016/j.cjca.2021.08.
    018
    531. Stiell IG, Archambault PM, Morris J, Mercier E, Eagles D, Perry JJ, et al. RAFF-3 Trial: a stepped-wedge cluster randomised trial to improve care of acute atrial fibrillation and
    flutter in the emergency department. Can J Cardiol 2021;37:1569–77. https://doi.org/
    10.1016/j.cjca.2021.06.016
    532. Gurevitz OT, Ammash NM, Malouf JF, Chandrasekaran K, Rosales AG, Ballman KV,
    et al. Comparative efficacy of monophasic and biphasic waveforms for transthoracic
    cardioversion of atrial fibrillation and atrial flutter. Am Heart J 2005;149:316–21.
    https://doi.org/10.1016/j.ahj.2004.07.007
    533. Mortensen K, Risius T, Schwemer TF, Aydin MA, Köster R, Klemm HU, et al. Biphasic
    versus monophasic shock for external cardioversion of atrial flutter: a prospective,
    randomized trial. Cardiology 2008;111:57–62. https://doi.org/10.1159/000113429
    534. Inácio JF, da Rosa Mdos S, Shah J, Rosário J, Vissoci JR, Manica AL, et al. Monophasic and biphasic shock for transthoracic conversion of atrial fibrillation: systematic review and
    network meta-analysis. Resuscitation 2016;100:66–75. https://doi.org/10.1016/j.
    resuscitation.2015.12.009
    535. Eid M, Abu Jazar D, Medhekar A, Khalife W, Javaid A, Ahsan C, et al. Anterior-posterior
    versus anterior-lateral electrodes position for electrical cardioversion of atrial fibrillation: a meta-analysis of randomized controlled trials. Int J Cardiol Heart Vasc 2022;43:
    101129. https://doi.org/10.1016/j.ijcha.2022.101129
  14. Squara F, Elbaum C, Garret G, Liprandi L, Scarlatti D, Bun SS, et al. Active compression
    versus standard anterior-posterior defibrillation for external cardioversion of atrial fibrillation: a prospective randomized study. Heart Rhythm 2021;18:360–5. https://doi. org/10.1016/j. hrthm.2020.11.005
    537. Schmidt AS, Lauridsen KG, Torp P, Bach LF, Rickers H, Løfgren B. Maximum-fixed energy shocks for cardioverting atrial fibrillation. Eur Heart J 2020;41:626–31. https://doi.
    org/10.1093/eurheartj/ehz585
    538. Müssigbrodt A, John S, Kosiuk J, Richter S, Hindricks G, Bollmann A.
    Vernakalant-facilitated electrical cardioversion: comparison of intravenous vernakalant
    and amiodarone for drug-enhanced electrical cardioversion of atrial fibrillation after
    failed electrical cardioversion. Europace 2016;18:51–6. https://doi.org/10.1093/ europace/euv194
    539. Climent VE, Marin F, Mainar L, Gomez-Aldaravi R, Martinez JG, Chorro FJ, et al. Effects
    of pretreatment with intravenous flecainide on efficacy of external cardioversion of
    persistent atrial fibrillation. Pacing Clin Electrophysiol 2004;27:368–72. https://doi.org/
    10.1111/j.1540-8159.2004.00444.x
    540. Tieleman RG, Van Gelder IC, Bosker HA, Kingma T, Wilde AA, Kirchhof CJ, et al. Does
    flecainide regain its antiarrhythmic activity after electrical cardioversion of persistent
    atrial fibrillation? Heart Rhythm 2005;2:223–30. https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2004.
    11.014
    541. Oral H, Souza JJ, Michaud GF, Knight BP, Goyal R, Strickberger SA, et al. Facilitating
    transthoracic cardioversion of atrial fibrillation with ibutilide pretreatment. N Engl J
    Med
    1999;340:1849–54. https://doi.org/10.1056/NEJM199906173402401
  15. Nair M, George LK, Koshy SK. Safety and efficacy of ibutilide in cardioversion of atrial
    flutter and fibrillation. J Am Board Fam Med 2011;24:86–92. https://doi.org/10.3122/
    jabfm.2011.01.080096
    543. Bianconi L, Mennuni M, Lukic V, Castro A, Chieffi M, Santini M. Effects of oral propafenone administration before electrical cardioversion of chronic atrial fibrillation: a
    placebo-controlled study. J Am Coll Cardiol 1996;28:700–6. https://doi.org/10.1016/
    S0735-1097 (96) 00230-6
  16. Channer KS, Birchall A, Steeds RP, Walters SJ, Yeo WW, West JN, et al. A randomized
    placebo-controlled trial of pre-treatment and short- or long-term maintenance therapy with amiodarone supporting DC cardioversion for persistent atrial fibrillation. Eur
    Heart J
    2004;25:144–50. https://doi.org/10.1016/j.ehj.2003.10.020
  17. Capucci A, Villani GQ, Aschieri D, Rosi A, Piepoli MF. Oral amiodarone increases the
    efficacy of direct-current cardioversion in restoration of sinus rhythm in patients with
    chronic atrial fibrillation. Eur Heart J 2000;21:66–73. https://doi.org/10.1053/euhj.1999.
    1734
    546. Um KJ, McIntyre WF, Healey JS, Mendoza PA, Koziarz A, Amit G, et al. Pre- and posttreatment with amiodarone for elective electrical cardioversion of atrial fibrillation: a
    systematic review and meta-analysis. Europace 2019;21:856–63. https://doi.org/10.
    1093/europace/euy310
    547. Toso E, Iannaccone M, Caponi D, Rotondi F, Santoro A, Gallo C, et al. Does antiarrhythmic drugs premedication improve electrical cardioversion success in persistent
    atrial fibrillation? J Electrocardiol 2017;50:294–300. https://doi.org/10.1016/j.
    jelectrocard.2016.12.004
    548. Ganapathy AV, Monjazeb S, Ganapathy KS, Shanoon F, Razavi M. “Asymptomatic” persistent or permanent atrial fibrillation: a misnomer in selected patients. Int J Cardiol
    2015;185:112–3. https://doi.org/10.1016/j.ijcard.2015.03.122
  18. Voskoboinik A, Kalman E, Plunkett G, Knott J, Moskovitch J, Sanders P, et al. A comparison of early versus delayed elective electrical cardioversion for recurrent episodes
    of persistent atrial fibrillation: a multi-center study. Int J Cardiol 2019;284:33–7. https://
    doi.org/10.1016/j.ijcard.2018.10.068
    550. Airaksinen KEJ. Early versus delayed cardioversion: why should we wait? Expert Rev
    Cardiovasc Ther
    2020;18:149–54. https://doi.org/10.1080/14779072.2020.1736563
  19. Boriani G, Diemberger I, Biffi M, Martignani C, Branzi A. Pharmacological cardioversion
    of atrial fibrillation: current management and treatment options. Drugs 2004;64:
    2741–62. https://doi.org/10.2165/00003495-200464240-00003
  20. Dan GA, Martinez-Rubio A, Agewall S, Boriani G, Borggrefe M, Gaita F, et al.
    Antiarrhythmic drugs–clinical use and clinical decision making: a consensus document
    from the European Heart Rhythm Association (EHRA) and European Society of
    Cardiology (ESC) Working Group on Cardiovascular Pharmacology, endorsed by
    the Heart Rhythm Society (HRS), Asia-Pacific Heart Rhythm Society (APHRS) and
    International Society of Cardiovascular Pharmacotherapy (ISCP). Europace 2018;20:
    731–732an. https://doi.org/10.1093/europace/eux373
  21. Gitt AK, Smolka W, Michailov G, Bernhardt A, Pittrow D, Lewalter T. Types and outcomes of cardioversion in patients admitted to hospital for atrial fibrillation: results of
    the German RHYTHM-AF study. Clin Res Cardiol 2013;102:713–23. https://doi.org/10.
    1007/s00392-013-0586-x
    554. Calkins H, Hindricks G, Cappato R, Kim YH, Saad EB, Aguinaga L, et al. 2017 HRS/
    EHRA/ECAS/APHRS/SOLAECE expert consensus statement on catheter and surgical
    ablation of atrial fibrillation: executive summary. Europace 2018;20:157–208. https://
    doi.org/10.1093/europace/eux275
    555. Danias PG, Caulfield TA, Weigner MJ, Silverman DI, Manning WJ. Likelihood of spontaneous conversion of atrial fibrillation to sinus rhythm. J Am Coll Cardiol 1998;31:
    588–92. https://doi.org/10.1016/S0735-1097(97)00534-2
  22. Tsiachris D, Doundoulakis I, Pagkalidou E, Kordalis A, Deftereos S, Gatzoulis KA, et al.
    Pharmacologic cardioversion in patients with paroxysmal atrial fibrillation: a network
    meta-analysis. Cardiovasc Drugs Ther 2021;35:293–308. https://doi.org/10.1007/
    s10557-020-07127-1
  23. Grönberg T, Nuotio I, Nikkinen M, Ylitalo A, Vasankari T, Hartikainen JE, et al.
    Arrhythmic complications after electrical cardioversion of acute atrial fibrillation: the
    FinCV study. Europace 2013;15:1432–5. https://doi.org/10.1093/europace/eut106
    558. Brandes A, Crijns H, Rienstra M, Kirchhof P, Grove EL, Pedersen KB, et al.
    Cardioversion of atrial fibrillation and atrial flutter revisited: current evidence and practical guidance for a common procedure. Europace 2020;22:1149–61. https://doi.org/
    10.1093/europace/euaa057
  24. Stiell IG, Sivilotti MLA, Taljaard M, Birnie D, Vadeboncoeur A, Hohl CM, et al. Electrical
    versus pharmacological cardioversion for emergency department patients with acute
    atrial fibrillation (RAFF2): a partial factorial randomised trial. Lancet 2020;395:339–49.
    https://doi.org/10.1016/S0140-6736(19)32994-0
    560. Alboni P, Botto GL, Baldi N, Luzi M, Russo V, Gianfranchi L, et al. Outpatient treatment
    of recent-onset atrial fibrillation with the “pill-in-the-pocket” approach. N Engl J Med
    2004;351:2384–91. https://doi.org/10.1056/NEJMoa041233
  25. Brembilla-Perrot B, Houriez P, Beurrier D, Claudon O, Terrier de la Chaise A, Louis P.
    Predictors of atrial flutter with 1:1 conduction in patients treated with class I antiarrhythmic drugs for atrial tachyarrhythmias. Int J Cardiol 2001;80:7–15. https://doi.
    org/10.1016/S0167-5273(01) 00459-4
  26. Conde D, Costabel JP, Caro M, Ferro A, Lambardi F, Corrales Barboza A, et al.
    Flecainide versus vernakalant for conversion of recent-onset atrial fibrillation. Int J
    Cardiol
    2013;168:2423–5. https://doi.org/10.1016/j.ijcard.2013.02.006
  27. Markey GC, Salter N, Ryan J. Intravenous flecainide for emergency department management of acute atrial fibrillation. J Emerg Med 2018;54:320–7. https://doi.org/10.
    1016/j.jemermed.2017.11.016
    564. Martinez-Marcos FJ, Garcia-Garmendia JL, Ortega-Carpio A, Fernandez-Gomez JM,
    Santos JM, Camacho C. Comparison of intravenous flecainide, propafenone, and amiodarone for conversion of acute atrial fibrillation to sinus rhythm. Am J Cardiol
    2000;86:950–3. https://doi.org/10.1016/S0002-9149(00)01128-0
  28. Reisinger J, Gatterer E, Lang W, Vanicek T, Eisserer G, Bachleitner T, et al. Flecainide
    versus ibutilide for immediate cardioversion of atrial fibrillation of recent onset. Eur
    Heart J
    2004;25:1318–24. https://doi.org/10.1016/j.ehj.2004.04.030
  29. Zhang N, Guo JH, Zhang H, Li XB, Zhang P, Xn Y. Comparison of intravenous ibutilide
    vs. propafenone for rapid termination of recent onset atrial fibrillation. Int J Clin Pract
    2005;59:1395–400. https://doi.org/10.1111/j.1368-5031.2005.00705.x
  30. Camm AJ, Capucci A, Hohnloser SH, Torp-Pedersen C, Van Gelder IC, Mangal B, et al.
    A randomized active-controlled study comparing the efficacy and safety of vernakalant
    to amiodarone in recent-onset atrial fibrillation. J Am Coll Cardiol 2011;57:313–21.
    https://doi.org/10.1016/j.jacc.2010.07.046
    568. Roy D, Pratt CM, Torp-Pedersen C, Wyse DG, Toft E, Juul-Moller S, et al. Vernakalant
    hydrochloride for rapid conversion of atrial fibrillation: a phase 3, randomized,
    placebo-controlled trial. Circulation 2008;117:1518–25. https://doi.org/10.1161/
    CIRCULATIONAHA.107.723866
  31. Deedwania PC, Singh BN, Ellenbogen K, Fisher S, Fletcher R, Singh SN. Spontaneous
    conversion and maintenance of sinus rhythm by amiodarone in patients with heart failure and atrial fibrillation: observations from the veterans affairs congestive heart failure
    survival trial of antiarrhythmic therapy (CHF-STAT). The Department of Veterans
    Affairs CHF-STAT Investigators. Circulation 1998;98:2574–9. https://doi.org/10.1161/ 01.cir.98.23.2574
    570. Hofmann R, Steinwender C, Kammler J, Kypta A, Wimmer G, Leisch F. Intravenous
    amiodarone bolus for treatment of atrial fibrillation in patients with advanced congestive heart failure or cardiogenic shock. Wien Klin Wochenschr 2004;116:744–9. https://
    doi.org/10.1007/s00508-004-0264-0
    571. Alboni P, Botto GL, Boriani G, Russo G, Pacchioni F, Iori M, et al. Intravenous administration of flecainide or propafenone in patients with recent-onset atrial fibrillation
    does not predict adverse effects during ‘pill-in-the-pocket’ treatment. Heart 2010;
    96:546–9. https://doi.org/10.1136/hrt.2009.187963
  32. Khan IA. Single oral loading dose of propafenone for pharmacological cardioversion of
    recent-onset atrial fibrillation. J Am Coll Cardiol 2001;37:542–7. https://doi.org/10.1016/
    S0735-1097(00)01116-5
    573. Khan IA. Oral loading single dose flecainide for pharmacological cardioversion of
    recent-onset atrial fibrillation. Int J Cardiol 2003;87:121–8. https://doi.org/10.1016/
    S0167-5273(02)00467-9
    574. Al-Khatib SM, Allen LaPointe NM, Chatterjee R, Crowley MJ, Dupre ME, Kong DF,
    et al. Rate- and rhythm-control therapies in patients with atrial fibrillation: a systematic
    review. Ann Intern Med 2014;160:760–73. https://doi.org/10.7326/M13-1467
  33. Andrade JG, Aguilar M, Atzema C, Bell A, Cairns JA, Cheung CC, et al. The 2020
    Canadian Cardiovascular Society/Canadian Heart Rhythm Society Comprehensive
    Guidelines for the Management of Atrial Fibrillation. Can J Cardiol 2020;36:
    1847–948. https://doi.org/10.1016/j.cjca.2020.09.001
  34. Lafuente-Lafuente C, Valembois L, Bergmann JF, Belmin J. Antiarrhythmics for maintaining sinus rhythm after cardioversion of atrial fibrillation. Cochrane Database Syst
    Rev
    2015;3:CD005049. https://doi.org/10.1002/14651858.CD005049.pub4
  35. Valembois L, Audureau E, Takeda A, Jarzebowski W, Belmin J, Lafuente-Lafuente C.
    Antiarrhythmics for maintaining sinus rhythm after cardioversion of atrial fibrillation.
    Cochrane Database Syst Rev 2019;2019:Cd005049. https://doi.org/10.1002/
    14651858.CD005049.pub5
  36. Crijns HJ, Van Gelder IC, Van Gilst WH, Hillege H, Gosselink AM, Lie KI. Serial antiarrhythmic drug treatment to maintain sinus rhythm after electrical cardioversion for
    chronic atrial fibrillation or atrial flutter. Am J Cardiol 1991;68:335–41. https://doi.
    org/10.1016/0002-9149(91)90828-9
    579. Chatterjee S, Sardar P, Lichstein E, Mukherjee D, Aikat S. Pharmacologic rate versus
    rhythm-control strategies in atrial fibrillation: an updated comprehensive review and
    meta-analysis. Pacing Clin Electrophysiol 2013;36:122–33. https://doi.org/10.1111/j.
    1540-8159.2012.03513.x
    580. Kotecha D, Kirchhof P. Rate and rhythm control have comparable effects on mortality
    and stroke in atrial fibrillation but better data are needed. Evid Based Med 2014;19:
    222–3. https://doi.org/10.1136/ebmed-2014-110062
  37. Piccini JP, Hasselblad V, Peterson ED, Washam JB, Califf RM, Kong DF. Comparative
    efficacy of dronedarone and amiodarone for the maintenance of sinus rhythm in patients with atrial fibrillation. J Am Coll Cardiol 2009;54:1089–95. https://doi.org/10.
    1016/j.jacc.2009.04.085
    582. Eckardt L, Sehner S, Suling A, Borof K, Breithardt G, Crijns H, et al. Attaining sinus
    rhythm mediates improved outcome with early rhythm control therapy of atrial fibrillation: the EAST-AFNET 4 trial. Eur Heart J 2022;43:4127–44. https://doi.org/10.1093/
    eurheartj/ehac471
    583. Freemantle N, Lafuente-Lafuente C, Mitchell S, Eckert L, Reynolds M. Mixed treatment
    comparison of dronedarone, amiodarone, sotalol, flecainide, and propafenone, for the
    management of atrial fibrillation. Europace 2011;13:329–45. https://doi.org/10.1093/
    europace/euq450
    584. Frommeyer G, Eckardt L. Drug-induced proarrhythmia: risk factors and electrophysiological mechanisms. Nat Rev Cardiol 2016;13:36–47. https://doi.org/10.1038/nrcardio. 2015.110
  38. Kochiadakis GE, Marketou ME, Igoumenidis NE, Chrysostomakis SI, Mavrakis HE,
    Kaleboubas MD, et al. Amiodarone, sotalol, or propafenone in atrial fibrillation: which
    is preferred to maintain normal sinus rhythm? Pacing Clin Electrophysiol 2000;23:
    1883–7. https://doi.org/10.1111/j.1540-8159.2000.tb07044.x
  39. Roy D, Talajic M, Dorian P, Connolly S, Eisenberg MJ, Green M, et al. Amiodarone to
    prevent recurrence of atrial fibrillation. Canadian Trial of Atrial Fibrillation
    Investigators. N Engl J Med 2000;342:913–20. https://doi.org/10.1056/
    NEJM 200003303421302
  40. Singh BN, Singh SN, Reda DJ, Tang XC, Lopez B, Harris CL, et al. Amiodarone versus
    sotalol for atrial fibrillation. N Engl J Med 2005;352:1861–72. https://doi.org/10.1056/
    NEJMoa041705
    588. Ehrlich JR, Look C, Kostev K, Israel CW, Goette A. Impact of dronedarone on the risk
    of myocardial infarction and stroke in atrial fibrillation patients followed in general
    practices in Germany. Int J Cardiol 2019;278:126–32. https://doi.org/10.1016/j.ijcard.
    2018.11.133
    589. Singh BN, Connolly SJ, Crijns HJ, Roy D, Kowey PR, Capucci A, et al. Dronedarone for
    maintenance of sinus rhythm in atrial fibrillation or flutter. N Engl J Med 2007;357:
    987–99. https://doi.org/10.1056/NEJMoa054686
  41. Stroobandt R, Stiels B, Hoebrechts R. Propafenone for conversion and prophylaxis of
    atrial fibrillation. Propafenone Atrial Fibrillation Trial Investigators. Am J Cardiol 1997;
    79:418–23. https://doi.org/10.1016/S0002-9149(96)00779-5
  42. Wazni OM, Dandamudi G, Sood N, Hoyt R, Tyler J, Durrani S, et al. Cryoballoon ablation as initial therapy for atrial fibrillation. N Engl J Med 2021;384:316–24. https://doi.
    org/10.1056/NEJMoa2029554
    592. Cosedis Nielsen J, Johannessen A, Raatikainen P, Hindricks G, Walfridsson H, Kongstad
    O, et al. Radiofrequency ablation as initial therapy in paroxysmal atrial fibrillation. N
    Engl J Med
    2012;367:1587–95. https://doi.org/10.1056/NEJMoa1113566
  43. Morillo CA, Verma A, Connolly SJ, Kuck KH, Nair GM, Champagne J, et al.
    Radiofrequency ablation vs antiarrhythmic drugs as first-line treatment of paroxysmal
    atrial fibrillation (RAAFT-2): a randomized trial. JAMA 2014;311:692–700. https://doi.
    org/10.1001/jama.2014.467
    594. Kuniss M, Pavlovic N, Velagic V, Hermida JS, Healey S, Arena G, et al. Cryoballoon ablation vs. antiarrhythmic drugs: first-line therapy for patients with paroxysmal atrial fibrillation. Europace 2021;23:1033–41. https://doi.org/10.1093/europace/euab029
  44. Hocini M, Sanders P, Deisenhofer I, Jais P, Hsu LF, Scavee C, et al. Reverse remodeling
    of sinus node function after catheter ablation of atrial fibrillation in patients with prolonged sinus pauses. Circulation 2003;108:1172–5. https://doi.org/10.1161/01.CIR. 0000090685.13169.07
  45. Inada K, Yamane T, Tokutake K, Yokoyama K, Mishima T, Hioki M, et al. The role of
    successful catheter ablation in patients with paroxysmal atrial fibrillation and prolonged sinus pauses: outcome during a 5-year follow-up. Europace 2014;16:208–13.
    https://doi.org/10.1093/europace/eut159
  46. Chen YW, Bai R, Lin T, Salim M, Sang CH, Long DY, et al. Pacing or ablation: which is
    better for paroxysmal atrial fibrillation-related tachycardia-bradycardia syndrome?
    Pacing Clin Electrophysiol 2014;37:403–11. https://doi.org/10.1111/pace.12340
  47. Zhang R, Wang Y, Yang M, Yang Y, Wang Z, Yin X, et al. Risk stratification for atrial
    fibrillation and outcomes in tachycardia-bradycardia syndrome: ablation vs. pacing.
    Front Cardiovasc Med 2021;8:674471. https://doi.org/10.3389/fcvm.2021.674471
  48. Oral H, Pappone C, Chugh A, Good E, Bogun F, Pelosi F, Jr, et al. Circumferential
    pulmonary-vein ablation for chronic atrial fibrillation. N Engl J Med 2006;354:
    934–41. https://doi.org/10.1056/NEJMoa050955
  49. Yan Huo TG, Schönbauer R, Wójcik M, Fiedler L, Roithinger FX, Martinek M, et al.
    Low-voltage myocardium-guided ablation trial of persistent atrial fibrillation. NEJM
    Evid
    2022;1:EVIDoa2200141. https://doi.org/10.1056/EVIDoa2200141.
  50. Reddy VY, Gerstenfeld EP, Natale A, Whang W, Cuoco FA, Patel C, et al. Pulsed field
    or conventional thermal ablation for paroxysmal atrial fibrillation. N Engl J Med 2023;
    389:1660–71. https://doi.org/10.1056/NEJMoa2307291
  51. Kalman JM, Al-Kaisey AM, Parameswaran R, Hawson J, Anderson RD, Lim M, et al.
    Impact of early vs. delayed atrial fibrillation catheter ablation on atrial arrhythmia recurrences. Eur Heart J 2023;44:2447–54. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehad247
  52. Kalman JM, Sanders P, Rosso R, Calkins H. Should we perform catheter ablation for
    asymptomatic atrial fibrillation? Circulation 2017;136:490–9. https://doi.org/10.1161/
    CIRCULATIONAHA.116.024926
    604. Hunter RJ, Berriman TJ, Diab I, Kamdar R, Richmond L, Baker V, et al. A randomized
    controlled trial of catheter ablation versus medical treatment of atrial fibrillation in
    heart failure (the CAMTAF trial). Circ Arrhythm Electrophysiol 2014;7:31–8. https://
    doi.org/10.1161/CIRCEP.113.000806
    605. Jones DG, Haldar SK, Hussain W, Sharma R, Francis DP, Rahman-Haley SL, et al. A randomized trial to assess catheter ablation versus rate control in the management of persistent atrial fibrillation in heart failure. J Am Coll Cardiol 2013;61:1894–903. https://doi.
    org/10.1016/j.jacc.2013.01.069
    606. Kuck KH, Merkely B, Zahn R, Arentz T, Seidl K, Schluter M, et al. Catheter ablation
    versus best medical therapy in patients with persistent atrial fibrillation and congestive
    heart failure: the randomized AMICA trial. Circ Arrhythm Electrophysiol 2019;12:
    e007731. https://doi.org/10.1161/CIRCEP.119.007731
  53. MacDonald MR, Connelly DT, Hawkins NM, Steedman T, Payne J, Shaw M, et al.
    Radiofrequency ablation for persistent atrial fibrillation in patients with advanced heart
    failure and severe left ventricular systolic dysfunction: a randomised controlled trial.
    Heart 2011;97:740–7. https://doi.org/10.1136/hrt.2010.207340
  54. Parkash R, Wells GA, Rouleau J, Talajic M, Essebag V, Skanes A, et al. Randomized
    ablation-based rhythm-control versus rate-control trial in patients with heart failure
    and atrial fibrillation: results from the RAFT-AF trial. Circulation 2022;145:
    1693–704. https://doi.org/10.1161/CIRCULATIONAHA.121.057095
  55. Romero J, Gabr M, Alviz I, Briceno D, Diaz JC, Rodriguez D, et al. Improved survival in
    patients with atrial fibrillation and heart failure undergoing catheter ablation compared
    to medical treatment: a systematic review and meta-analysis of randomized controlled
    trials. J Cardiovasc Electrophysiol 2022;33:2356–66. https://doi.org/10.1111/jce.15622
  56. Chen S, Purerfellner H, Meyer C, Acou WJ, Schratter A, Ling Z, et al. Rhythm control
    for patients with atrial fibrillation complicated with heart failure in the contemporary
    era of catheter ablation: a stratified pooled analysis of randomized data. Eur Heart J
    2020;41:2863–73. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehz443
  57. Prabhu S, Taylor AJ, Costello BT, Kaye DM, McLellan AJA, Voskoboinik A, et al.
    Catheter ablation versus medical rate control in atrial fibrillation and systolic dysfunction: the CAMERA-MRI study. J Am Coll Cardiol 2017;70:1949–61. https://doi.org/10.
    1016/j.jacc.2017.08.041
    612. Packer DL, Piccini JP, Monahan KH, Al-Khalidi HR, Silverstein AP, Noseworthy PA,
    et al. Ablation versus drug therapy for atrial fibrillation in heart failure: results from
    the CABANA trial. Circulation 2021;143:1377–90. https://doi.org/10.1161/
    CIRCULATIONAHA.120.050991
  58. Smit MD, Moes ML, Maass AH, Achekar ID, Van Geel PP, Hillege HL, et al. The importance of whether atrial fibrillation or heart failure develops first. Eur J Heart Fail 2012;14: 1030–40. https://doi.org/10.1093/eurjhf/hfs097
  59. Sohns C, Zintl K, Zhao Y, Dagher L, Andresen D, Siebels J, et al. Impact of left ventricular function and heart failure symptoms on outcomes post ablation of atrial fibrillation
    in heart failure: CASTLE-AF trial. Circ Arrhythm Electrophysiol 2020;13:e008461. https://
    doi.org/10.1161/CIRCEP.120.008461
    615. Sugumar H, Prabhu S, Costello B, Chieng D, Azzopardi S, Voskoboinik A, et al.
    Catheter ablation versus medication in atrial fibrillation and systolic dysfunction: late
    outcomes of CAMERA-MRI study. JACC Clin Electrophysiol 2020;6:1721–31. https://
    doi.org/10.1016/j.jacep.2020.08.019
    616. Kirstein B, Neudeck S, Gaspar T, Piorkowski J, Wechselberger S, Kronborg MB, et al.
    Left atrial fibrosis predicts left ventricular ejection fraction response after atrial fibrillation ablation in heart failure patients: the fibrosis-HF study. Europace 2020;22:
    1812–21. https://doi.org/10.1093/europace/euaa179
  60. Ishiguchi H, Yoshiga Y, Shimizu A, Ueyama T, Fukuda M, Kato T, et al. Long-term events
    following catheter-ablation for atrial fibrillation in heart failure with preserved ejection
    fraction. ESC Heart Fail 2022;9:3505–18. https://doi.org/10.1002/ehf2.14079
  61. Gu G, Wu J, Gao X, Liu M, Jin C, Xu Y. Catheter ablation of atrial fibrillation in patients
    with heart failure and preserved ejection fraction: a meta-analysis. Clin Cardiol 2022;45:
    786–93. https://doi.org/10.1002/clc.23841
  62. Yamauchi R, Morishima I, Okumura K, Kanzaki Y, Morita Y, Takagi K, et al. Catheter
    ablation for non-paroxysmal atrial fibrillation accompanied by heart failure with preserved ejection fraction: feasibility and benefits in functions and B-type natriuretic peptide. Europace 2021;23:1252–61. https://doi.org/10.1093/europace/euaa420
  63. Rordorf R, Scazzuso F, Chun KRJ, Khelae SK, Kueffer FJ, Braegelmann KM, et al.
    Cryoballoon ablation for the treatment of atrial fibrillation in patients with concomitant heart failure and either reduced or preserved left ventricular ejection fraction: results from the Cryo AF global registry. J Am Heart Assoc 2021;10:e021323. https://doi.
    org/10.1161/JAHA.121.021323
  64. Cha YM, Wokhlu A, Asirvatham SJ, Shen WK, Friedman PA, Munger TM, et al. Success
    of ablation for atrial fibrillation in isolated left ventricular diastolic dysfunction: a comparison to systolic dysfunction and normal ventricular function. Circ Arrhythm
    Electrophysiol
    2011;4:724–32. https://doi.org/10.1161/CIRCEP.110.960690
  65. Machino-Ohtsuka T, Seo Y, Ishizu T, Sugano A, Atsumi A, Yamamoto M, et al. Efficacy,
    safety, and outcomes of catheter ablation of atrial fibrillation in patients with heart failure with preserved ejection fraction. J Am Coll Cardiol 2013;62:1857–65. https://doi.
    org/10.1016/j.jacc.2013.07.020
    623. Aldaas OM, Lupercio F, Darden D, Mylavarapu PS, Malladi CL, Han FT, et al.
    Meta-analysis of the usefulness of catheter ablation of atrial fibrillation in patients
    with heart failure with preserved ejection fraction. Am J Cardiol 2021;142:66–73.
    https://doi.org/10.1016/j.amjcard.2020.11.039
    624. Black-Maier E, Ren X, Steinberg BA, Green CL, Barnett AS, Rosa NS, et al. Catheter
    ablation of atrial fibrillation in patients with heart failure and preserved ejection fraction. Heart Rhythm 2018;15:651–7. https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2017.12.001
  66. von Olshausen G, Benson L, Dahlström U, Lund LH, Savarese G, Braunschweig F.
    Catheter ablation for patients with atrial fibrillation and heart failure: insights from
    the Swedish Heart Failure Registry. Eur J Heart Fail 2022;24:1636–46. https://doi.org/
    10.1002/ejhf.2604
    626. Shiraishi Y, Kohsaka S, Ikemura N, Kimura T, Katsumata Y, Tanimoto K, et al. Catheter
    ablation for patients with atrial fibrillation and heart failure with reduced and preserved
    ejection fraction: insights from the KiCS-AF multicentre cohort study. Europace 2023;
    25:83–91. https://doi.org/10.1093/europace/euac108
  67. Wu L, Narasimhan B, Ho KS, Zheng Y, Shah AN, Kantharia BK. Safety and complications of catheter ablation for atrial fibrillation: predictors of complications from an updated analysis the national inpatient database. J Cardiovasc Electrophysiol 2021;32:
    1024–34. https://doi.org/10.1111/jce.14979
  68. Tripathi B, Arora S, Kumar V, Abdelrahman M, Lahewala S, Dave M, et al. Temporal
    trends of in-hospital complications associated with catheter ablation of atrial fibrillation in the United States: an update from nationwide inpatient sample database
    (2011–2014). J Cardiovasc Electrophysiol 2018; 29:715–24. https://doi.org/10.1111/jce. 13471
  69. Steinbeck G, Sinner MF, Lutz M, Muller-Nurasyid M, Kaab S, Reinecke H. Incidence of
    complications related to catheter ablation of atrial fibrillation and atrial flutter: a nationwide in-hospital analysis of administrative data for Germany in 2014. Eur Heart J
    2018;39:4020–9. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehy452
  70. Deshmukh A, Patel NJ, Pant S, Shah N, Chothani A, Mehta K, et al. In-hospital complications associated with catheter ablation of atrial fibrillation in the United States between 2000 and 2010: analysis of 93 801 procedures. Circulation 2013;128:
    2104–12. https://doi.org/10.1161/CIRCULATIONAHA.113.003862
  71. Cheng EP, Liu CF, Yeo I, Markowitz SM, Thomas G, Ip JE, et al. Risk of mortality following catheter ablation of atrial fibrillation. J Am Coll Cardiol 2019;74:2254–64. https://doi. org/10.1016/j.jacc.2019.08.1036
  72. Gawalko M, Duncker D, Manninger M, van der Velden RMJ, Hermans ANL, Verhaert
    DVM, et al. The European TeleCheck-AF project on remote app-based management
    of atrial fibrillation during the COVID-19 pandemic: centre and patient experiences.
    Europace 2021;23:1003–15. https://doi.org/10.1093/europace/euab050
  73. Rizas KD, Freyer L, Sappler N, von Stülpnagel L, Spielbichler P, Krasniqi A, et al.
    Smartphone-based screening for atrial fibrillation: a pragmatic randomized clinical trial.
    Nat Med 2022;28:1823–30. https://doi.org/10.1038/s41591-022-01979-w
  74. Andrade JG, Champagne J, Dubuc M, Deyell MW, Verma A, Macle L, et al. Cryoballoon
    or radiofrequency ablation for atrial fibrillation assessed by continuous monitoring: a
    randomized clinical trial. Circulation 2019;140:1779–88. https://doi.org/10.1161/
    CIRCULATIONAHA.119.042622
    635. Duytschaever M, Demolder A, Phlips T, Sarkozy A, El Haddad M, Taghji P, et al.
    PulmOnary vein isolation with vs. without continued antiarrhythmic Drug
    trEatment in subjects with Recurrent Atrial Fibrillation (POWDER AF): results from
    a multicentre randomized trial. Eur Heart J 2018;39:1429–37. https://doi.org/10.
    1093/eurheartj/ehx666
  75. Darkner S, Chen X, Hansen J, Pehrson S, Johannessen A, Nielsen JB, et al. Recurrence
    of arrhythmia following short-term oral AMIOdarone after CATheter ablation for atrial fibrillation: a double-blind, randomized, placebo-controlled study (AMIO-CAT
    trial). Eur Heart J 2014;35:3356–64. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehu354
  76. Leong-Sit P, Roux JF, Zado E, Callans DJ, Garcia F, Lin D, et al. Antiarrhythmics after
    ablation of atrial fibrillation (5A study): six-month follow-up study. Circ Arrhythm
    Electrophysiol
    2011;4:11–4. https://doi.org/10.1161/CIRCEP.110.955393
  77. Kaitani K, Inoue K, Kobori A, Nakazawa Y, Ozawa T, Kurotobi T, et al. Efficacy of antiarrhythmic drugs short-term use after catheter ablation for atrial fibrillation
    (EAST-AF) trial. Eur Heart J 2016;37:610–8. https://doi.org/10.1093/eurheartj/ehv501
  78. Noseworthy PA, Van Houten HK, Sangaralingham LR, Deshmukh AJ, Kapa S, Mulpuru
    SK, et al. Effect of antiarrhythmic drug initiation on readmission after catheter ablation
    for atrial fibrillation. JACC Clin Electrophysiol 2015;1:238–44. https://doi.org/10.1016/j.
    jacep.2015.04.016
    640. Xu X, Alida CT, Yu B. Administration of antiarrhythmic drugs to maintain sinus rhythm
    after catheter ablation for atrial fibrillation: a meta-analysis. Cardiovasc Ther 2015;33:
    242–6. https://doi.org/10.1111/1755-5922.12133
  79. Chen W, Liu H, Ling Z, Xu Y, Fan J, Du H, et al. Efficacy of short-term antiarrhythmic
    drugs use after catheter ablation of atrial fibrillation—a systematic review with
    meta-analyses and trial sequential analyses of randomized controlled trials. PLoS One
    2016;11:e0156121. https://doi.org/10.1371/journal.pone.0156121
  80. Schleberger R, Metzner A, Kuck KH, Andresen D, Willems S, Hoffmann E, et al.
    Antiarrhythmic drug therapy after catheter ablation for atrial fibrillation–insights
    from the German Ablation Registry. Pharmacol Res Perspect 2021;9:e00880. https://
    doi.org/10.1002/prp2.880
    643. Zhang XD, Gu J, Jiang WF, Zhao L, Zhou L, Wang YL, et al. Optimal rhythm-control
    strategy for recurrent atrial tachycardia after catheter ablation of persistent atrial fibrillation: a randomized clinical trial. Eur Heart J 2014;35:1327–34. https://doi.org/10.
    1093/eurheartj/ehu017
    644. Zhou L, He L, Wang W, Li C, Li S, Tang R, et al. Effect of repeat catheter ablation vs.
    antiarrhythmic drug therapy among patients with recurrent atrial tachycardia/atrial fibrillation after atrial fibrillation catheter ablation: data from CHINA-AF registry.
    Europace 2023;25:382–9. https://doi.org/10.1093/europace/euac169
  81. Fink T, Metzner A, Willems S, Eckardt L, Ince H, Brachmann J, et al. Procedural success,
    safety and patients satisfaction after second ablation of atrial fibrillation in the elderly:
    results from the German ablation registry. Clin Res Cardiol 2019;108:1354–63. https://
    doi.org/10.1007/s00392-019-01471-5
  82. Winkle RA, Mead RH, Engel G, Kong MH, Fleming W, Salcedo J, et al. Impact of obesity
    on atrial fibrillation ablation: patient characteristics, long-term outcomes, and complications. Heart Rhythm 2017;14:819–27. https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2017.02.023
  83. Sticherling C, Marin F, Birnie D, Boriani G, Calkins H, Dan G-A, et al. Antithrombotic
    management in patients undergoing electrophysiological procedures: a European
    Heart Rhythm Association (EHRA) position document endorsed by the ESC
    Working Group Thrombosis, Heart Rhythm Society (HRS), and Asia Pacific Heart
    Rhythm Society (APHRS). EP Europace 2015;17:1197–214. https://doi.org/10.1093/
    europace/euv190
    648. Calkins H, Kuck KH, Cappato R, Brugada J, Camm AJ, Chen SA, et al. 2012 HRS/EHRA/
    ECAS expert consensus statement on catheter and surgical ablation of atrial fibrillation: recommendations for patient selection, procedural techniques, patient management and follow-up, definitions, endpoints, and research trial design. J Interv Card
    Electrophysiol
    2012;33:171–257. https://doi.org/10.1007/s10840-012-9672-7
  84. Noubiap JJ, Agbaedeng TA, Ndoadoumgue AL, Nyaga UF, Kengne AP. Atrial thrombus
    detection on transoesophageal echocardiography in patients with atrial fibrillation
    undergoing cardioversion or catheter ablation: a pooled analysis of rates and predictors. J Cardiovasc Electrophysiol 2021;32:2179–88. https://doi.org/10.1111/jce.15082
  85. Lurie A, Wang J, Hinnegan KJ, McIntyre WF, Belley-Côté EP, Amit G, et al. Prevalence
    of left atrial thrombus in anticoagulated patients with atrial fibrillation. J Am Coll Cardiol
    2021;77:2875–86. https://doi.org/10.1016/j.jacc.2021.04.036
  86. Efremidis M, Bazoukis G, Vlachos K, Prappa E, Megarisiotou A, Dragasis S, et al. Safety
    of catheter ablation of atrial fibrillation without pre- or peri-procedural imaging for the
    detection of left atrial thrombus in the era of uninterrupted anticoagulation. J Arrhythm
    2021;37:28–32. https://doi.org/10.1002/joa3.12466
  87. Diab M, Wazni OM, Saliba WI, Tarakji KG, Ballout JA, Hutt E, et al. Ablation of atrial
    fibrillation without left atrial appendage imaging in patients treated with direct oral anticoagulants. Circ Arrhythm Electrophysiol 2020;13:e008301. https://doi.org/10.1161/
    CIRCEP.119.008301
    653. Patel K, Natale A, Yang R, Trivedi C, Romero J, Briceno D, et al. Is transesophageal
    echocardiography necessary in patients undergoing ablation of atrial fibrillation on
    an uninterrupted direct oral anticoagulant regimen? Results from a prospective multicenter registry. Heart Rhythm 2020;17:2093–9. https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2020.
    07.017
    654. Mao YJ, Wang H, Huang PF. Meta-analysis of the safety and efficacy of using minimally
    interrupted novel oral anticoagulants in patients undergoing catheter ablation for atrial
    fibrillation. J Interv Card Electrophysiol 2021;60:407–17. https://doi.org/10.1007/s10840-
    020-00754-6
    655. van Vugt SPG, Westra SW, Volleberg R, Hannink G, Nakamura R, de Asmundis C, et al.
    Meta-analysis of controlled studies on minimally interrupted vs. continuous use of nonvitamin K antagonist oral anticoagulants in catheter ablation for atrial fibrillation.
    Europace 2021;23:1961–9. https://doi.org/10.1093/europace/euab175
  88. Ge Z, Faggioni M, Baber U, Sartori S, Sorrentino S, Farhan S, et al. Safety and efficacy of nonvitamin K antagonist oral anticoagulants during catheter ablation of atrial fibrillation: a systematic review and meta-analysis. Cardiovasc Ther 2018;36:e12457. https:// doi.org/10.1111/1755-5922.12457
    657. Asad ZUA, Akhtar KH, Jafry AH, Khan MH, Khan MS, Munir MB, et al. Uninterrupted
    versus interrupted direct oral anticoagulation for catheter ablation of atrial fibrillation:
    a systematic review and meta-analysis. J Cardiovasc Electrophysiol 2021;32:1995–2004.
    https://doi.org/10.1111/jce.15043
    658. Mao YJ, Wang H, Huang PF. Peri-procedural novel oral anticoagulants dosing strategy
    during atrial fibrillation ablation: a meta-analysis. Pacing Clin Electrophysiol 2020;43:
    1104–14. https://doi.org/10.1111/pace.14040
  89. Basu-Ray I, Khanra D, Kupó P, Bunch J, Theus SA, Mukherjee A, et al. Outcomes of
    uninterrupted vs interrupted periprocedural direct oral anticoagulants in atrial fibrillation ablation: a meta-analysis. J Arrhythm 2021;37:384–93. https://doi.org/10.1002/joa3.
    12507
    660. Romero J, Cerrud-Rodriguez RC, Diaz JC, Rodriguez D, Arshad S, Alviz I, et al. Oral
    anticoagulation after catheter ablation of atrial fibrillation and the associated risk of
    thromboembolic events and intracranial hemorrhage: a systematic review and
    meta-analysis. J Cardiovasc Electrophysiol 2019;30:1250–7. https://doi.org/10.1111/jce.
    14052
    661. Liu XH, Xu Q, Luo T, Zhang L, Liu HJ. Discontinuation of oral anticoagulation therapy
    after successful atrial fibrillation ablation: a systematic review and meta-analysis of prospective studies. PLoS One 2021;16:e0253709. https://doi.org/10.1371/journal.pone.
    0253709
    662. Proietti R, AlTurki A, Di Biase L, China P, Forleo G, Corrado A, et al. Anticoagulation
    after catheter ablation of atrial fibrillation: an unnecessary evil? A systematic review and
    meta-analysis. J Cardiovasc Electrophysiol 2019;30:468–78. https://doi.org/10.1111/jce.
    13822
    663. Maduray K, Moneruzzaman M, Changwe GJ, Zhong J. Benefits and risks associated with
    long-term oral anticoagulation after successful atrial fibrillation catheter ablation: systematic review and meta-analysis. Clin Appl Thromb Hemost 2022;28:1076029622
    1118480. https://doi.org/10.1177/10760296221118480
  90. Brockmeyer M, Lin Y, Parco C, Karathanos A, Krieger T, Schulze V, et al.
    Uninterrupted anticoagulation during catheter ablation for atrial fibrillation: no
    difference in major bleeding and stroke between direct oral anticoagulants and vitamin
    K antagonists in an updated meta-analysis of randomised controlled trials. Acta Cardiol
    2021;76:288–95. https://doi.org/10.1080/00015385.2020.1724689
  91. Di Monaco A, Guida P, Vitulano N, Quadrini F, Troisi F, Langialonga T, et al. Catheter
    ablation of atrial fibrillation with uninterrupted anticoagulation: a meta-analysis of six
    randomized controlled trials. J Cardiovasc Med (Hagerstown) 2020;21:483–90. https://
    doi.org/10.2459/JCM.0000000000000939
    666. Maesen B, Luermans J, Bidar E, Chaldoupi SM, Gelsomino S, Maessen JG, et al. A hybrid
    approach to complex arrhythmias. Europace 2021;23:ii28–33. https://doi.org/10.1093/
    europace/euab027
    667. van der Heijden CAJ, Vroomen M, Luermans JG, Vos R, Crijns H, Gelsomino S, et al.
    Hybrid versus catheter ablation in patients with persistent and longstanding persistent
    atrial fibrillation: a systematic review and meta-analysis. Eur J Cardiothorac Surg 2019;56:
    433–43. https://doi.org/10.1093/ejcts/ezy475
  92. Boersma LV, Castella M, van Boven W, Berruezo A, Yilmaz A, Nadal M, et al. Atrial
    fibrillation catheter ablation versus surgical ablation treatment (FAST): a 2-center randomized clinical trial. Circulation 2012;125:23–30. https://doi.org/10.1161/ CIRCULATIONAHA. 111.074047
    669. Castella M, Kotecha D, van Laar C, Wintgens L, Castillo Y, Kelder J, et al.
    Thoracoscopic vs. catheter ablation for atrial fibrillation: long-term follow-up of the
    FAST randomized trial. Europace 2019;21:746–53. https://doi.org/10.1093/europace/
    euy325
    670. van der Heijden CAJ, Weberndörfer V, Vroomen M, Luermans JG, Chaldoupi SM,
    Bidar E, et al. Hybrid ablation versus repeated catheter ablation in persistent atrial fibrillation: a randomized controlled trial. JACC Clin Electrophysiol 2023;9:1013–23. https://
    doi.org/10.1016/j.jacep.2022.12.011
    671. DeLurgio DB, Crossen KJ, Gill J, Blauth C, Oza SR, Magnano AR, et al. Hybrid convergent procedure for the treatment of persistent and long-standing persistent atrial fibrillation: results of CONVERGE clinical trial. Circ Arrhythm Electrophysiol 2020;13:
    e009288. https://doi.org/10.1161/CIRCEP.120.009288
  93. Pokushalov E, Romanov A, Elesin D, Bogachev-Prokophiev A, Losik D, Bairamova S,
    et al. Catheter versus surgical ablation of atrial fibrillation after a failed initial pulmonary
    vein isolation procedure: a randomized controlled trial. J Cardiovasc Electrophysiol 2013;
    24:1338–43. https://doi.org/10.1111/jce.12245
  94. Haldar S, Khan HR, Boyalla V, Kralj-Hans I, Jones S, Lord J, et al. Catheter ablation vs.
    thoracoscopic surgical ablation in long-standing persistent atrial fibrillation: CASA-AF
    randomized controlled trial. Eur Heart J 2020;41:4471–80. https://doi.org/10.1093/
    eurheartj/ehaa658
    674. Doll N, Weimar T, Kosior DA, Bulava A, Mokracek A, Mönnig G, et al. Efficacy and
    safety of hybrid epicardial and endocardial ablation versus endocardial ablation in patients with persistent and longstanding persistent atrial fibrillation: a randomised, controlled trial. EClinicalMedicine 2023;61:102052. https://doi.org/10.1016/j.eclinm.2023. 102052
  95. Malaisrie SC, McCarthy PM, Kruse J, Matsouaka R, Andrei AC, Grau-Sepulveda MV,
    et al. Burden of preoperative atrial fibrillation in patients undergoing coronary artery
    bypass grafting. J Thorac Cardiovasc Surg 2018;155:2358–2367 e1. https://doi.org/10.
    1016/j.jtcvs.2018.01.069
    676. Saxena A, Dinh DT, Reid CM, Smith JA, Shardey GC, Newcomb AE. Does preoperative atrial fibrillation portend a poorer prognosis in patients undergoing isolated aortic
    valve replacement? A multicentre Australian study. Can J Cardiol 2013;29:697–703.
    https://doi.org/10.1016/j.cjca.2012.08.016
    677. Quader MA, McCarthy PM, Gillinov AM, Alster JM, Cosgrove DM, 3rd, Lytle BW, et al.
    Does preoperative atrial fibrillation reduce survival after coronary artery bypass grafting? Ann Thorac Surg 2004;77:1514–22; discussion 1522–4. https://doi.org/10.1016/j.
    athoracsur.2003.09.069
  96. Damiano RJ, Jr, Schwartz FH, Bailey MS, Maniar HS, Munfakh NA, Moon MR, et al. The Cox Maze IV procedure: predictors of late recurrence. J Thorac Cardiovasc Surg 2011;
    141:113–21. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2010.08.067
  97. Cox JL, Schuessler RB, Boineau JP. The development of the Maze procedure for the
    treatment of atrial fibrillation. Semin Thorac Cardiovasc Surg 2000;12:2–14. https://
    doi.org/10.1016/S1043-0679(00)70010-4
  98. Melby SJ, Zierer A, Bailey MS, Cox JL, Lawton JS, Munfakh N, et al. A new era in the
    surgical treatment of atrial fibrillation: the impact of ablation technology and lesion
    set on procedural efficacy. Ann Surg 2006;244:583–92. https://doi.org/10.1097/01.sla.
    0000237654.00841.26
    681. Badhwar V, Rankin JS, Damiano RJ, Jr, Gillinov AM, Bakaeen FG, Edgerton JR, et al. The Society of Thoracic Surgeons 2017 clinical practice guidelines for the surgical treatment of atrial fibrillation. Ann Thorac Surg 2017;103:329–41. https://doi.org/10.1016/
    j.athoracsur.2016.10.076
    682. Ad N, Henry L, Hunt S, Holmes SD. Impact of clinical presentation and surgeon experience on the decision to perform surgical ablation. Ann Thorac Surg 2013;96:763–8; discussion 768–9. https://doi.org/10.1016/j.athoracsur.2013.03.066
  99. Cheng DC, Ad N, Martin J, Berglin EE, Chang BC, Doukas G, et al. Surgical ablation for
    atrial fibrillation in cardiac surgery: a meta-analysis and systematic review. Innovations
    (Phila)
    2010;5:84–96. https://doi.org/10.1177/155698451000500204
  100. McClure GR, Belley-Cote EP, Jaffer IH, Dvirnik N, An KR, Fortin G, et al. Surgical ablation of atrial fibrillation: a systematic review and meta-analysis of randomized controlled trials. Europace 2018;20:1442–50. https://doi.org/10.1093/europace/eux336
  101. Phan K, Xie A, La Meir M, Black D, Yan TD. Surgical ablation for treatment of atrial
    fibrillation in cardiac surgery: a cumulative meta-analysis of randomised controlled
    trials. Heart 2014;100:722–30. https://doi.org/10.1136/heartjnl-2013-305351
  102. Barnett SD, Ad N. Surgical ablation as treatment for the elimination of atrial fibrillation:
    a meta-analysis. J Thorac Cardiovasc Surg 2006;131:1029–35. https://doi.org/10.1016/j.
    jtcvs.2005.10.020
    687. Gillinov AM, Gelijns AC, Parides MK, DeRose JJ, Jr, Moskowitz AJ, Voisine P, et al.
    Surgical ablation of atrial fibrillation during mitral-valve surgery. N Engl J Med 2015;
    372:1399–409. https://doi.org/10.1056/NEJMoa1500528
  103. MacGregor RM, Bakir NH, Pedamallu H, Sinn LA, Maniar HS, Melby SJ, et al. Late results after stand-alone surgical ablation for atrial fibrillation. J Thorac Cardiovasc Surg
    2022;164:1515–1528.e8. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2021.03.109
  104. Musharbash FN, Schill MR, Sinn LA, Schuessler RB, Maniar HS, Moon MR, et al.
    Performance of the Cox-Maze IV procedure is associated with improved long-term
    survival in patients with atrial fibrillation undergoing cardiac surgery. J Thorac
    Cardiovasc Surg
    2018;155:159–70. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2017.09.095
  105. Rankin JS, Lerner DJ, Braid-Forbes MJ, McCrea MM, Badhwar V. Surgical ablation of
    atrial fibrillation concomitant to coronary-artery bypass grafting provides costeffective mortality reduction. J Thorac Cardiovasc Surg 2020;160:675–686 e13.
    https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2019.07.131
    691. Suwalski P, Kowalewski M, Jasinski M, Staromlynski J, Zembala M, Widenka K, et al.
    Survival after surgical ablation for atrial fibrillation in mitral valve surgery: analysis
    from the Polish National Registry of Cardiac Surgery Procedures (KROK). J Thorac
    Cardiovasc Surg
    2019;157:1007–1018 e4. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2018.07.099
  106. Suwalski P, Kowalewski M, Jasinski M, Staromlynski J, Zembala M, Widenka K, et al.
    Surgical ablation for atrial fibrillation during isolated coronary artery bypass surgery.
    Eur J Cardiothorac Surg 2020;57:691–700. https://doi.org/10.1093/ejcts/ezz298
  107. Wehbe M, Albert M, Lewalter T, Ouarrak T, Senges J, Hanke T, et al. The German cardiosurgery atrial fibrillation registry: 1-year follow-up outcomes. Thorac Cardiovasc Surg
    2023;71:255–63. https://doi.org/10.1055/s-0042-1750311
  108. Kim HJ, Kim YJ, Kim M, Yoo JS, Kim DH, Park DW, et al. Surgical ablation for atrial
    fibrillation during aortic and mitral valve surgery: a nationwide population-based cohort study. J Thorac Cardiovasc Surg 2024;167:981–93. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.
    2022.08.038
    695. Ad N, Henry L, Hunt S, Holmes SD. Do we increase the operative risk by adding the
    Cox Maze III procedure to aortic valve replacement and coronary artery bypass surgery? J Thorac Cardiovasc Surg 2012;143:936–44. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2011.
    12.018
    696. Maesen B, van der Heijden CAJ, Bidar E, Vos R, Athanasiou T, Maessen JG.
    Patient-reported quality of life after stand-alone and concomitant arrhythmia surgery:
    a systematic review and meta-analysis. Interact Cardiovasc Thorac Surg 2022;34:339–48.
    https://doi.org/10.1093/icvts/ivab282
    697. Osmancik P, Budera P, Talavera D, Hlavicka J, Herman D, Holy J, et al. Five-year outcomes in cardiac surgery patients with atrial fibrillation undergoing concomitant surgical ablation versus no ablation. The long-term follow-up of the PRAGUE-12 study.
    Heart Rhythm 2019;16:1334–40. https://doi.org/10.1016/j.hrthm.2019.05.001
  109. Lee R, Jivan A, Kruse J, McGee EC, Jr, Malaisrie SC, Bernstein R, et al. Late neurologic
    events after surgery for atrial fibrillation: rare but relevant. Ann Thorac Surg 2013;95:
    126–31; discussion 131–2. https://doi.org/10.1016/j.athoracsur.2012.08.048
  110. Kowalewski M, Pasierski M, Kołodziejczak M, Litwinowicz R, Kowalówka A, Wańha W, et al. Atrial fibrillation ablation improves late survival after concomitant cardiac surgery.
    J Thorac Cardiovasc Surg 2023;166:1656–1668.e8. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs.2022.
    04.035
    700. Cox JL, Ad N, Palazzo T. Impact of the maze procedure on the stroke rate in patients
    with atrial fibrillation. J Thorac Cardiovasc Surg 1999;118:833–40. https://doi.org/10.
    1016/S0022-5223(99)70052-8
    701. Huffman MD, Karmali KN, Berendsen MA, Andrei AC, Kruse J, McCarthy PM, et al.
    Concomitant atrial fibrillation surgery for people undergoing cardiac surgery.
    Cochrane Database Syst Rev 2016;8:CD011814. https://doi.org/10.1002/14651858.
    CD011814.pub2
    702. Kowalewski M, Pasierski M, Finke J, Kolodziejczak M, Staromlynski J, Litwinowicz R,
    et al. Permanent pacemaker implantation after valve and arrhythmia surgery in patients
    with preoperative atrial fibrillation. Heart Rhythm 2022;19:1442–9. https://doi.org/10.
    1016/j.hrthm.2022.04.007
    703. Pokushalov E, Romanov A, Corbucci G, Cherniavsky A, Karaskov A. Benefit of ablation
    of first diagnosed paroxysmal atrial fibrillation during coronary artery bypass grafting: a
    pilot study. Eur J Cardiothorac Surg 2012;41:556–60. https://doi.org/10.1093/ejcts/
    ezr101
    704. Yoo JS, Kim JB, Ro SK, Jung Y, Jung SH, Choo SJ, et al. Impact of concomitant surgical
    atrial fibrillation ablation in patients undergoing aortic valve replacement. Circ J 2014;
    78:1364–71. https://doi.org/10.1253/circj.CJ-13-1533
  111. Malaisrie SC, Lee R, Kruse J, Lapin B, Wang EC, Bonow RO, et al. Atrial fibrillation ablation in patients undergoing aortic valve replacement. J Heart Valve Dis 2012;21:
    350–7.
    706. Rankin JS, Lerner DJ, Braid-Forbes MJ, Ferguson MA, Badhwar V. One-year mortality
    and costs associated with surgical ablation for atrial fibrillation concomitant to coronary artery bypass grafting. Eur J Cardiothorac Surg 2017;52:471–7. https://doi.org/10.
    1093/ejcts/ezx126
    707. Schill MR, Musharbash FN, Hansalia V, Greenberg JW, Melby SJ, Maniar HS, et al. Late
    results of the Cox-Maze IV procedure in patients undergoing coronary artery bypass
    grafting. J Thorac Cardiovasc Surg 2017;153:1087–94. https://doi.org/10.1016/j.jtcvs. 2016.12.034
BÀI VIẾT LIÊN QUAN
XEM THÊM

DANH MỤC

THÔNG BÁO